Dù có nhiều tranh cãi, phản đối của một số nhà khoa học, chuyên gia am hiểu về ĐBSCL ở Trường ĐH Cần Thơ, nhưng Bộ NN&PTNT đã chính thức có quyết định “phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé giai đoạn 1”.
Trước đó, ngày 18.12.2018, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) của dự án hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé tại văn bản số 3805/QĐ-BTNMT.
Vùng Tây Nam sông Hậu của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện có ba dự án “khủng”, được tính bằng đơn vị ngàn tỉ đồng, gồm Thoát lũ ra biển Tây, Ô Môn – Xà No và Ngọt hóa bán đảo Cà Mau. Nhiều ý kiến cho rằng các dự án này không thành công. Vì vậy, trước khi quyết định phê duyệt một dự án khủng, Bộ NN&PTNT nên thực hiện một nghiên cứu toàn diện những dự án thủy lợi đã triển khai vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung và vùng Tây sông Hậu nói riêng về các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường.
Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé triển khai sẽ tác động rất lớn đến môi trường tự nhiên và xã hội trên một diện tích đáng kể vùng đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) đã được thông qua, dự án đã được phê duyệt, nhưng nhiều vấn đề mà các nhà khoa học đặt ra vẫn còn đó hoặc tiếp tục chờ đợi các cơ quan có trách nhiệm giải trình.
Dưới đây là một số ý kiến của các chuyên gia về dự án này được tổng hợp từ nhiều nguồn.
I.Tóm tắt dự án [1; 2]
Dự án thủy lợi CLCB được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư giai đoạn 1 ngày 17-4-2017, dựa theo tờ trình của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) ngày 5-4-2017.
Công trình do Ban Quản lý đầu tư và Xây dựng Thủy lợi 10 – thuộc Bộ NN&PTNT làm chủ đầu tư. Đơn vị tư vấn lập báo cáo đầu tư dự án là Liên danh Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam – Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam – Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng Thủy lợi 2.
Cơ quan lập Báo cáo Đánh giá tác động môi trường là Viện Kỹ thuật Biển, Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam. Dự án là sự kế thừa của các đề tài nghiên cứu từ năm 2000 và dự án được lập từ năm 2010 đến nay.
Dự án nằm chủ yếu ở vùng Bán đảo Cà Mau; phía bắc là kênh Cái Sắn, phía Nam và Đông Nam là kênh Quản lộ-Phụng Hiệp, phía Đông Bắc là sông Hậu và phía Tây là Vịnh Thái Lan. Tổng diện tích đất tự nhiên vùng dự án là 909.248 ha (chiếm hơn 20% diện tích toàn ĐBSCL), thuộc Hậu Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu và TP Cần Thơ.


Mục tiêu đầu tư
Dự án có 4 mục tiêu:
– Kiểm soát mặn, giải quyết mâu thuẫn giữa vùng nuôi trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp của các tỉnh: Kiên Giang, Hậu Giang và tỉnh Bạc Liêu thuộc lưu vực sông Cái Lớn – Cái Bé. Đồng thời, góp phần phát triển thủy sản ổn định ở vùng ven biển của tỉnh Kiên Giang.
– Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển để giải quyết tình trạng thiếu nước ngọt vào mùa khô, phòng chống cháy rừng, đặc biệt trong những năm hạn hán, góp phần phát triển kinh tế xã hội ổn định.
– Tăng cường khả năng thoát lũ, tiêu úng, tiêu chua cải tạo đất phèn;
– Kết hợp phát triển giao thông thủy, bộ trong vùng dự án.
Qui mô đầu tư dự án giai đoạn 1
Xây dựng cụm công trình giai đoạn 1, gồm các hạng mục:
– Cống Cái Lớn, cống Cái Bé;
– Đê nối hai cống Cái Lớn, Cái Bé với Quốc lộ 61;
– Kênh nối sông Cái Lớn – Cái Bé;
– Sửa chữa cống âu Tắc Thủ.
Tổng mức đầu tư dự kiến: 3.309,5 tỷ đồng


II.Ý kiến trước khi phê duyệt dự án
1) Nhóm chuyên gia ở Trường Đại học Cần Thơ (PGS. TS. Lê Anh Tuấn, TS. Dương Văn Ni, TS. Nguyễn Hồng Tín, TS. Đặng Kiều Nhân và chuyên gia độc lập về sinh thái, ThS. Nguyễn Hữu Thiện) [4]
Về mục tiêu kiểm soát nguồn nước mặn, phải trả lời được 2 câu hỏi: Nguồn nước mặn nào? Tại sao phải kiểm soát nguồn nước mặn từ phía biển? Vì ở ĐBSCL không có nhánh sông tự nhiên nào từ sông Hậu chảy ra biển Tây. Đất vùng bán đảo Cà Mau không phải do phù sa sông Hậu bồi lắng trực tiếp mà do phù sa từ phía biển bồi tụ; trong đất có muối. Mỗi năm khi mùa khô đến thì muối trong đất bị mao dẫn lên mặt đất; vào mùa mưa, nước mưa hòa tan muối và đổ vào sông rạch. Như vậy là có hai nguồn nước mặn: nước mặn từ phía biển và nước mặn hình thành tại chỗ. Vậy mục tiêu của dự án chỉ kiểm soát nguồn nước mặn từ phía biển (xây cống) liệu có đúng?
Về mục tiêu giải quyết mâu thuẫn giữa vùng nuôi trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp của các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu và Sóc Trăng thuộc lưu vực sông CLCB. Theo đề cương dự án thì đó là mâu thuẫn mặn – ngọt. Nhưng thực tế ở đây, nơi nào đất gò hơn thì bà con xẻ mương phèn trồng lúa do dễ tiêu thoát nước còn nơi nào đất trũng thấp (đất láng) thì bao vuông nuôi tôm sú, nên đất nông nghiệp xen kẽ với đất nuôi trồng thủy sản. Cách sử dụng nước là nếu cần bơm nước ngọt cho lúa thì người dân chọn lúc nước ròng và nếu cần bơm nước mặn cho tôm thì người ta chọn lúc nước lớn. Có mâu thuẫn gì đâu? Bài học về việc người dân đòi phá bỏ cống Láng Trâm (dự án Ngọt hóa bán đảo Cà Mau) để có đủ nguồn nước mặn cho nuôi trồng thủy sản vẫn còn nguyên giá trị.
Về mục tiêu góp phần phát triển thủy sản ổn định ở vùng ven biển của tỉnh Kiên Giang. Thủy sản này là nuôi trồng hay đánh bắt tự nhiên? Năng suất thủy sản nuôi trồng của khu vực này là rất thấp so với thủy sản đánh bắt tự nhiên trên sông rạch và vùng biển tiếp giáp. Trong đó có rất nhiều loài thủy sản sử dụng sông rạch như là bãi đẻ và vùng biển tiếp giáp là bãi ăn, và nhiều loài thì sử dụng ngược lại. Vì vậy lúc nước lớn là lúc nhiều loài thủy sản từ biển vào sông rạch để sinh sôi và kiếm ăn. Vậy việc đóng cống lúc này sẽ làm ảnh hưởng ra sao?
Với mục tiêu chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn ngọt cho vùng ven biển. Nếu xảy ra hạn hán kéo dài, mặn-phèn trong đất xì lên làm ảnh hưởng cây trồng thì nguồn nước ngọt giữ được trong các sông rạch liệu có đủ để bơm vào đồng ruộng mà pha loãng độ mặn-phèn này không? Rồi rửa lượng mặn – phèn này đi đâu? Giả như hạn hán kiểu năm 2015-2016 thì mực nước sông Hậu thấp hơn bình thường, vậy nếu có xây thêm trạm bơm bổ sung từ Cần Thơ, chưa chắc có đủ nước ngọt để bơm. Nếu có, chưa chắc nước chảy được vì nếu bơm thì phải bơm lúc nước ròng từ sông Hậu để không bị mặn, nhưng phía biển Tây coi chừng lại là nước lớn vì có hai chế độ triều khác nhau. Những tình huống này, trong đề cương của dự án chưa đưa ra được giải pháp.
Với mục tiêu tăng cường khả năng thoát lũ, tiêu úng, tiêu chua cải tạo đất phèn. Đây là mục tiêu mà từ các giải pháp đến tính khả thi đều kém thuyết phục. Vì sự di chuyển nước của vùng bán đảo Cà Mau là nhờ hai chế độ triều khác nhau giữa biển Đông (bán nhật triều) và biển Tây (nhật triều) và mực nước trên sông Hậu, mà chúng tạo ra lực hút – đẩy rất nhịp nhàng, làm cho nước di chuyển trong toàn vùng và di chuyển theo hướng từ Đông sang Tây.
PGS. TS Lê Anh Tuấn [5]
Dự án chưa đưa ra được những dữ liệu đầy đủ để chứng minh việc bỏ ra một khoản tiền lớn như trên để xây đập, thì lợi ích thu được có đủ để bù cho khoản đầu tư đó hay không? “Tăng canh tác, tăng sản lượng (từ việc xây đập bảo vệ vùng ngọt hóa, nếu có), nó có bù được cho những tác động khác hay không.
Hệ sinh thái trong khu vực sẽ bị thay đổi vì ĐBSCL có 3 vùng sinh thái, gồm vùng nước ngọt ở phía trên, vùng nước lợ ở giữa và vùng nước mặn giáp biển. Nếu làm đập chặn ngang thì sẽ làm phá vỡ hệ sinh thái nước lợ, trong khi đó, chưa đánh giá được việc chặn như vậy sẽ có lợi nhiều hay bị hại nhiều.
Việc xây dựng đập có thể dẫn đến chất lượng nước sẽ thay đổi theo hướng xấu đi, bởi giữa sông và biển có mối quan hệ, biển giúp cải tạo ô nhiễm nguồn nước trong lưu vực sông, khi công trình đó được xây thì ô nhiễm có khả năng xảy ra ở phần bên trong đập.
Việc ngăn mặn, giữ ngọt thông qua xây dựng hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé để sản xuất lúa (hay một sản phẩm nông nghiệp nào đó liên quan sử dụng nước ngọt) có mang lại lợi ích lớn hơn nuôi tôm hay không? “Đến bây giờ chưa thể chứng minh được rất nhiều vấn đề ở đây (dự án) thì trước tiên cần rút ra những bài học từ cống đập Ba Lai (Bến Tre) – dự án ngăn mặn, giữ ngọt tỉnh Bến Tre”.
PGS. TS Lê Anh Tuấn nhấn mạnh rằng nếu chưa rút ra được bài học từ cống Ba Lai thì việc đầu tư làm dự án Cái Lớn – Cái Bé là điều chưa nên trong lúc này.
ThS. Nguyễn Hữu Thiện (chuyên gia độc lập về sinh thái đồng bằng SCL) [6]
Theo ThS. Nguyễn Hữu Thiện, việc đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi này là không cần thiết. Bốn luận điểm được đưa ra trong báo cáo đánh giá tác động môi trường, để khẳng định sự cần thiết và cấp bách phải đầu tư dự án nêu trên, chưa có tính thuyết phục.
Luận điểm thứ nhất được nêu ra xuất phát tình trạng khô hạn của mùa khô năm 2016. Theo ông Thiện, đây là một sự kiện cực đoan 90 năm mới có một lần, không phải là xu hướng chung của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nên không thể căn cứ vào yếu tố cực đoan đó để khẳng định cần thiết phải đầu tư dự án nêu trên.
“Ngay từ tháng 4-2016 chúng tôi đã nói phải hết sức bình tĩnh vì cái này (khô hạn, xâm nhập mặn) không phải là tình hình chung của đồng bằng. Thực tế chứng minh năm 2017 bình thường, 2018 bình thường và thậm chí bây giờ ngồi đây tôi có thể dự đoán năm 2019 cũng bình thường”, ông cho biết.
Luận điểm thứ hai được viện dẫn là nguy cơ nước biển dâng. Ông Thiện cho rằng, đây là luận điểm thiếu căn cứ, không đúng với thực tế của ĐBSCL, tức khả năng nước biển dâng đến năm 2100 chỉ khoảng 53 cm, chứ không phải là 1 mét như những kịch bản được đưa ra trước đó.
“Vì vậy, đừng lấy chuyện nước biển dâng đề “hù dọa””, ông nói và cho biết sụt lún đất mới là vấn đề đáng lo hơn. Nguyên nhân sụt lún là do sử dụng nước ngầm vì sông ngòi bị hủy hoại, không chảy được, trong khi lượng phân bón, thuốc trừ sâu sử dụng quá nhiều cho nền nông nghiệp và do đắp đập.
Luận điểm thứ ba được đưa ra để xây dựng hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé khi nói ĐBSCL gánh trọng trách đảm bảo an ninh lương thực, theo ông Thiện là không đúng vì nói năm khô hạn 2016 an ninh lương thực bị đe dọa, nhưng Việt Nam vẫn xuất khẩu hơn 4,8 triệu tấn gạo, tức có dư cả chục triệu tấn lúa, thì rõ ràng an ninh lương thực không hề bị đe dọa.
Luận điểm thứ tư được đưa ra khi nói nguy cơ cạn kiệt nguồn nước ngọt ở ĐBSCL do tác động của thượng nguồn. Ông Thiện không đồng tình và cho rằng đập thủy điện không làm hết nước, mà chỉ có tác động đến phù sa và thủy sản.
Theo ông, việc bỏ ra hơn 3.300 tỉ đồng (giai đoạn 1) để xây dựng dự án thì rất cần sự thận trọng. “Nó liên quan trách nhiệm của những người đưa ra quyết định, đánh giá tác động, phải có trách nhiệm với thế hệ sau, chứ không thể xài tiền một cách vô tội vạ như thế này”, ông cho biết.
Cũng theo ông Thiện, việc xây dựng hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé có thể đẩy quy hoạch tích hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư rơi vào “thất thủ”; chiến lược phát triển nông nghiệp theo hướng thuận thiên, theo nguyên tắc Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng biến đổi khí hậu cũng sẽ thất bại.
2) TS. Lê Xuân Thuyên, Giảng viên, Bộ môn Sinh thái và sinh học tiến hóa, Khoa Sinh học và Công nghệ sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh [7].
“Dự án HTTL CL-CB có một lỗ hổng lớn là không có phân tích và quản lý rủi ro, một đòi hỏi theo thông lệ đối với bất cứ dự án lớn nào. Do không làm việc này nghiêm túc từ đầu nên nhiều dự án của Việt Nam sau khi hoàn thành thường đổ bể, hoặc hoạt động không đúng mục tiêu và lại phải có hậu điều chỉnh…làm thêm, mới…
Mặt khác dự án “lồng ghép” hai nội dung có thuộc tính tương đối tách biệt nhau. Đó là ứng phó với thiên tai và phát triển kinh tế vùng.
Để ứng phó thì không thế thiếu xác định phạm vi hứng chịu tác động (exposure) và tần suất xuất hiện (frequency) của thiên tai, và đánh giá khả năng tự phục hồi (resilience) của hệ thống (ở đây là môi trường và các hệ sinh thái tự nhiên và nông nghiệp).
Đợt hạn cực trị năm 2016 được các nhà chuyên môn xác định có tần suất xảy ra là 70 năm/1 lần. Vì vậy lấy hạn 2016 làm mục tiêu ứng phó và đầu tư nhiều ngàn tỷ để ứng phó liệu có hợp lý không, có quá lãng phí không (giả thiết rằng đầu tư các công trình là đúng).
Đối với nội dung phát triển kinh tế, dự án cần có hiệu quả kinh tế là dĩ nhiên, nhưng cũng cần có các giải pháp thay thế (alternative solutions) vì mô hình sản xuất, hệ thống sản suất thay đổi theo nhu cầu thị trường, theo tinh thần NQ 120, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang làm kinh tế nông nghiệp. Trong dự án, cây lúa dường như là đối tượng tham chiếu gần như duy nhất và chưa thấy dự án đưa ra những giải pháp thay thế.
Khi dự án có mục tiêu lồng ghép thì nó sẽ phải thỏa mãn các mục tiêu riêng một cách rõ ràng, đầy đủ và thực chất. Lồng ghép không có nghĩa là “pha trộn” một cách chủ quan các vấn đề nhằm “minh giải” về sự cần thiết của dự án với lý do là đã có đề cập tới cả hai mục tiêu ứng phó với thiên tai và phát triển kinh tế.”
III. Ý kiến khi phê duyệt dự án
1) Thông qua ĐTM với tỷ lệ 100%, dù còn nhiều tranh cãi! [8]
Theo báo nguoidothi.net.vn, tại buổi thẩm định ĐTM dự án Cái Lớn Cái Bé vào ngày 3.11.2018, ý kiến đánh giá, phản biện của các thành viên Hội đồng thẩm định là khoa học, khách quan, chỉ ra nhiều điểm chưa thuyết phục và vấn đề của dự án.
Theo đó, nội dung ĐTM dự án cho thấy các số liệu được đưa ra tính toán là chưa đáng tin cậy, chưa đầy đủ.
Cơ chế vận hành hai cống Cái Lớn, Cái Bé chưa được tính toán đầy đủ, quá sơ sài, đơn giản và không thực tế.
Báo cáo chỉ mới đánh giá tác động của giai đoạn 1 mà không đầy đủ hai giai đoạn để có những đánh giá toàn diện dự án.
Báo cáo ĐTM cũng cho thấy dự án chỉ đánh giá tác động theo đúng một chiều là ủng hộ, thiếu khách quan khi cho rằng chỉ duy nhất một phương án là cần thực hiện dự án;…
Một vấn đề khác được ghi nhận tại buổi thẩm định dự án, đã có nhiều ý kiến thành viên hội đồng cho rằng: nên chăng là hoãn dự án sông Cái Lớn Cái Bé, do việc tính toán tác động của dự án với quy mô công trình quá lớn này cho đến nay vẫn chưa có đủ cơ sở để thực hiện.
Tuy nhiên, kết thúc buổi thẩm định, kết quả: 21/21 thành viên hội đồng đã bỏ phiếu thông qua báo cáo ĐTM dự án, với điều kiện phải điều chỉnh, bổ sung bản báo cáo đánh giá theo ý kiến hội đồng.
2) GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân (1) [9]
“Việc phê duyệt sẽ không có gì phải bàn luận nếu các điều kiện được thực hiện nghiêm túc.” Nghiên cứu văn bản và ĐTM đã được phê duyệt, tôi cho rằng ĐTM đã không được chỉnh sửa, bổ sung đúng với yêu cầu và vì vậy việc phê duyệt là khó chấp nhận và cần làm rõ một số điểm.
Có hai ý quan trọng trong phát biểu kết luận của Chủ tịch Hội đồng thẩm định:
(1) Yêu cầu chủ đầu tư phải nghiên cứu kỹ, lập bảng giải trình đối với từng ý kiến mà cuộc họp đã góp để tiếp tục hoàn chỉnh dự án và báo cáo ĐTM, đặc biệt về cơ chế vận hành của các cống, và báo cáo ĐTM phải có đầy đủ ba giai đoạn: chuẩn bị thi công, thi công và sau khi công trình đi vào hoạt động.
(2) Câu hỏi gửi đến Thứ trưởng Hoàng văn Thắng về ý kiến của nhiều ủy viên đề nghị hoãn việc phê duyệt dự án đến khi công bố Quy hoạch tổng thể thủy lợi ĐBSCL theo tinh thần NQ 120 của Chính phủ. Trong thời gian đó chủ đầu tư hoàn chỉnh việc sửa đổi các báo cáo NCKT và ĐTM như đã góp ý.
Những ý kiến nổi trội đã được nhiều ủy viên HĐTĐ phát biểu là:
+ Báo cáo NCKT phải nêu rõ các yếu tố đặc thù của vùng dự án, phải bổ sung thông tin về trầm tích, về mưa, về nước biển dâng, về địa hình, về sụt lún đất, làm rõ hiện trạng về đa dạng sinh học, về sản xuất nông lâm thủy sản, về rừng U Minh Thượng ngày trước và Vườn quốc gia UMT hiện nay. Làm rõ để đánh giá các tác động và khả năng thoát lũ của dự án.
+ Vùng tác động cũng như vùng hưởng lợi từ dự án không có biên cố định như trong báo cáo NCKT, mà thay đổi theo nhiều yếu tố, đặc biệt nước biển dâng, sụt lún ở đồng bằng, và từ chính công trình.
+ Báo cáo NCKT và ĐTM của dự án đưa ra nhiều kết luận từ mô hình số. Số liệu phải có độ dài đủ để đáng tin. Các chuỗi số liệu được sử dụng là quá ngắn.
+ Chế độ vận hành các cống Cái Lớn, Cái Bé là không thực tế.
Báo cáo ĐTM đã được chỉnh sửa bổ sung thế nào
Báo cáo ĐTM được phê duyệt đã được gửi kèm văn bản số 1661/BQL10-TD ngày 21.11.2018 của chủ đầu tư đến Bộ TNMT. Như vậy việc chỉnh sửa bổ sung được thực hiện chỉ trong vòng hai tuần, một thời gian rất ngắn để làm hết những việc mà Hội đồng thẩm định yêu cầu một cách nghiêm túc.
Dưới đây là bảng so sánh Mục lục của ba ĐTM, phiên bản tháng 9 (trái), phiên bản trình Hội đồng thẩm định (giữa) và phiên bản được phê duyệt (phải).
Số trang, cách đánh số các đoạn, phân đoạn có thể thay đổi, nhưng đọc kỹ và so sánh các phiên bản tôi đã thấy nội dung cơ bản vẫn giữ nguyên, đặc biệt phần tác động môi trường khi các cống đi vào vận hành, và chế độ vận hành của các cống. Việc chỉnh sửa, bổ sung báo cáo ĐTM chỉ là kết quả sử dụng các thao tác “lược bỏ”, “chép” và “dán” trên máy tính. Nó đã không đi vào nội dung được yêu cầu mà chỉ làm mang tính hình thức, nghĩa là đã làm không nghiêm túc.
Quyết định phê duyệt 3805/QĐ-BTNMT, một số điều cần làm rõ
Quyết định của Bộ TNvMT phê duyệt báo cáo ĐTM của một dự án là một văn bản quan trọng để Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án. Vì vậy cần tiến hành hết sức khoa học, khách quan, tuyệt đối không bị chi phối bởi lợi ích ngành, lợi ích nhóm.
Quyết định 3805/QĐ-BTNMT có nhiều điều cần làm rõ. Chỉ xin nêu hai ví dụ.
Ví dụ 1. Tại Điều 1, khoản 2.8. “Xây dựng chế độ vận hành (đóng/mở) cống, điều chỉnh chế độ vận hành để giảm thiểu tác động đến tính tự nhiên của dòng chảy, xói lở đường bờ và môi trường, đa dạng sinh học; đảm bảo thuận tiện cho người dân và phương tiện giao thông thủy đi lại qua cống”.
Yêu cầu là vậy, trong khi sơ đồ vận hành cống trong ĐTM được phê duyệt là “Vào mùa khô (từ tháng 1÷6): chỉ đóng khoảng 20 – 26 ngày vào các tháng 2 đến tháng 5, trong 1 tháng chỉ đóng tối đa 6 ngày để kiểm soát mặn/ngọt; Vào mùa mưa (từ tháng 7÷12): bình thường hầu như cống mở cửa hoàn toàn trả lại gần như hiện trạng lòng sông tự nhiên, chỉ đóng vào thời điểm có xảy ra mưa lớn, lũ lớn và triều lớn” (trang 292).
Câu hỏi 1: Tại sao ĐTM vẫn được phê duyệt với một sơ đồ vận hành các cống quá sơ lược đưa ra nhằm mục đích giảm thiểu các tác động? để rồi yêu cầu xây dựng một chế độ vận hành khác?
Câu hỏi 2: Nếu không xây dựng được chế độ vận hành theo yêu cầu ở khoản 2.8. Điều 1 thì sao? Làm gì với công trình đã xây xong?
Ví dụ 2. Điều 1, khoản 3.1. “Chủ dự án chỉ được phép triển khai Dự án sau khi thỏa mãn các điều kiện sau đây:
(a) Được Thủ tướng Chính phủ, Bộ NNvPTNT cho phép đầu tư Dự án; bảo đảm các yêu cầu của Nghị quyết số 120 (…); phù hợp vói Quy hoạch thủy lợi ĐBSCL giai đoạn 2012-2020 được phê duyệt tại Quyết định số 1387/QD-TTg ngày 25 tháng 8 năm 2012, Quy hoạch thủy lợi ĐBSCL (điều chỉnh) trong giai đoạn tiếp theo (…).
Câu hỏi 3: Đầu tư cho Dự án giai đoạn 1 là 3309,5 tỷ đồng thuộc loại phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư. Tại sao có thêm Bộ NNvPTNT cho phép?
Câu hỏi 4: Tuân thủ NQ 120 là yêu cầu cao nhất, hay là phù hợp với Quy hoạch thủy lợi 2012 cũng đủ, cho dù quy hoạch này (ban hành từ năm 2012) có những chỗ không phù hợp với quan điểm chỉ đạo của NQ 120 ban hành tháng 11.2017?
Hai câu hỏi 3 và 4 cần được làm rõ vì mập mờ ở các điểm này có thể mở ngõ cho việc “lách” để Dự án được Bộ NNvPTNT cho phép đầu tư.
(b) Tiếp tục rà soát, chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật của Dự án (…) trình Bộ NNvPTNT phê duyệt.
Câu hỏi 5: Báo cáo NCKT là một tài liệu cốt lõi của Dự án, cần phải được hoàn thiện như Hội đồng thẩm định yêu cầu, trên cơ sở đó mới đánh giá ĐTM. Quan điểm của Bộ TNMT là thế nào mà lại phê duyệt ĐTM rổi yêu cầu báo cáo NCKT “tiếp tục hoàn thiện”?
Câu hỏi 6: Có gì đảm bảo là báo cáo NCKT của Dự án sẽ được “tiếp tục hoàn thiện” một cách nghiêm túc, sẽ không làm theo kiểu chỉnh sửa bổ sung báo cáo ĐTM? Bộ NNvPTNT là cấp phê duyệt báo cáo NCKT? Sẽ là một khe hở khổng lồ nếu Bộ NNvPTNT là cấp phê duyệt (vừa đá bóng vừa thổi còi)!
Chỉ hai ví dụ trên đây cho thấy văn bản 3805/QĐ-BTNMT có rất nhiều điểm cần làm sáng tỏ. Dự án HTTL CL-CB rất hệ trọng về nhiều mặt. Không thể chấp nhận bất kỳ một sự mập mờ nào cho phép nó được duyệt trái luật, như ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trong công văn 11482/VPCP-NN, ngày 24.11.2018, gửi Bộ NNvPTNT và các Bộ có liên quan về Dự án HTTL CL-CB.
“Thông qua với điều kiện”, “phê duyệt với điều kiện” và trách nhiệm giải trình
Tham dự cuộc họp với hội đồng thẩm định, ngày 03.11.2018, tôi đã trải nghiệm một cuộc bỏ phiếu “thông qua với điều kiện …”. Sau khi biết kết quả tôi không chút hoài nghi rằng ĐTM rồi sẽ được phê duyệt, vì với các thủ thuật chỉnh sửa, cộng với những kỷ năng thuyết minh – thuyết phục, thì khả năng được phê duyệt không có gì là khó. Chấm đỗ một thí sinh không đạt yêu cầu, tầm tác hại không thể so sánh với “thông qua với điều kiện” một dự án tiêu phí nhiều ngàn tỷ đồng ngân sách nhà nước, chưa nói đến tác hại đến môi trường và sinh kế của người dân.
Phê duyệt ĐTM một dự án còn nhiều lỗ hổng “với điều kiện phải chỉnh sửa”, trách nhiệm còn nặng nề hơn. Nếu cánh cửa trước khi dự án được Thủ tướng cho phép đầu tư mà còn mập mờ và khe hở thì tác hại sẽ khôn lường.
Kiến nghị
- Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết ý kiến về 6 câu hỏi nêu trên đây.
- Thủ tướng Chính phủ xem xét cẩn trọng việc duyệt đầu tư Dự án Hệ thống thủy Cái Lớn – Cái Bé; yêu cầu một lần nữa các Bộ ngành có liên quan đến Dự án thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng trong công văn 11482/VPCP-NN.
- Để bảo vệ môi trường, chống lãng phí và tham nhũng một cách thiết thực, để việc đầu tư công có hiệu quả, xin kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ phải luật hóa nghiêm minh trách nhiệm giải trình của những người ra hay tham gia quyết định bằng lá phiếu hay bằng văn bản.
Viết bổ sung
Khi bài viết này được gửi đến Thủ tướng Chính phủ, và bạn đọc, Ông Hoàng Văn Thắng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chính thức ký quyết định 5078/QĐ-BNN-XD về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình Hệ thống thủy lợi Cái Lớn- Cái Bé giai đoạn 1.
Tình hình đã diễn ra đúng như tác giả dự báo và tìm cách ngăn chặn. Thực tế càng cho thấy các câu hỏi cần được trả lời, các kiến nghị thêm nóng bỏng.
Chú thích: (1) Là đại biểu tham dự Hội đồng được Bộ TNMT mời, tôi đã tham dự, phát biểu nhưng không bỏ phiếu. Sau cuộc họp, tôi đã đề nghị với Tổng Cục Môi trường, cơ quan thẩm định ĐTM, gửi cho tôi biên bản cuộc họp, nhưng tôi không được hồi âm. Những ý kiến ghi lại trong bài này là do chính tôi ghi. GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân, Đại biểu Quốc hội khóa IX, X, XI
IV. Để kết luận cho bài này, xin trích ý kiến của GS-TSKH Nguyễn Ngọc Trân tại hội nghị lấy ý kiến về dự án ngày 7.9 do Bộ NN-PTNT và UBND tỉnh Kiên Giang tổ chức [10].
“Tôi dự hội nghị này với tư cách Trưởng ban Chỉ đạo nghiên cứu ngọt hóa bán đảo Cà Mau (trước đây). Chúng ta đã triển khai dự án ngọt hóa bán đảo Cà Mau, dự án cống đập Ba Lai (Bến Tre) đến nay tại sao không thành công? Trước khi triển khai các dự án mới phải trả lời câu hỏi vì sao các dự án cũ không thành công. Trở lại với công trình sông Cái Lớn – Cái Bé, thiếu nước ngọt chỉ là hiện tượng, phải tìm nguyên nhân đúng thì mới có giải pháp đúng”.
“Chúng ta đang sống trên một vùng mà hệ sinh thái rất đa dạng nhưng chúng ta đang đơn giản nó. Từ rất nhiều sản vật tự nhiên chúng ta gom lại chỉ còn cây lúa và con tôm. Ta đang nghèo hóa môi trường và hệ sinh thái của chúng ta. Dựa trên tinh thần Nghị quyết 120, tôi cho rằng cần cân nhắc thật kỹ, khách quan và khoa học. Nên có hội thảo về biện pháp phi công trình trước khi đưa ra quyết định cho một giải pháp công trình”.
H & H
Tham khảo
[1] https://baocantho.com.vn/ban-ve-du-an-thuy-loi-cai-lon-cai-be-a102369.html
[2]http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/du-an-cai-lon-cai-be-ly-do-khong-the-phe-duyet-3365429/
[4] https://baocantho.com.vn/ban-ve-du-an-thuy-loi-cai-lon-cai-be-a102369.html
[5]https://www.thesaigontimes.vn/279478/nhin-lai-cac-cong-trinh-ngan-man-hien-co-o-dbscl.html
[7]http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/du-an-cai-lon–cai-be-nhung-phan-hoi-quy-bau-3365595/
[9] http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/phe-duyet-mot-dtm-va-trach-nhiem-giai-trinh-3372499/
[10]https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/nguy-co-ngheo-hoa-ban-dao-ca-mau-1000792.html