Kỷ niệm 20 năm thành lập Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu UNESCO

Vào năm 2001, một số Công viên địa chất (CVĐC) quốc gia ra đời và bắt đầu hợp tác với UNESCO trong công cuộc bảo tồn các giá trị địa học. Và sau đó, năm 2004, 17 công viên địa chất châu Âu và 8 công viên địa chất Trung Quốc đã cùng nhau đến trụ sở UNESCO ở Paris để thành lập Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu (GGN). Mạng lưới hợp tác toàn cầu giữa các Công viên địa chất trên toàn thế giới ra đời nhằm thúc đẩy ba mục tiêu chính là 1) bảo tồn di sản địa chất và hành tinh Trái đất, 2) giáo dục cộng đồng về Khoa học Trái đất và 3) thúc đẩy sự phát triển bền vững của địa phương. Là thành viên Mạng lưới CVĐC toàn cầu của UNESCO, các CVĐC có thể quảng bá, bảo tồn các di sản quốc gia và hưởng được nhiều lợi ích qua sự trao đổi và hợp tác toàn cầu trong mạng lưới.

Cho đến tháng 04/2024, GGN đã phát triển được 213 Công viên địa chất ở 48 quốc gia. CVĐC toàn cầu UNESCO đã trở thành một công cụ ngày càng quan trọng để UNESCO thu hút các Quốc gia Thành viên và cộng đồng của họ tham gia vào Khoa học Trái đất và bảo tồn địa di sản.

Nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu ra mắt một logo đặc biệt.

Vào ngày 22/4/2024, Ngày Trái Đất, GGN đã công bố các cuộc thi hướng đến dịp kỷ niệm đặc biệt này, với chủ đề “Công viên địa chất và bạn”, các cuộc thi xoay quanh sự cảm nhận, và tình yêu của bạn dành cho CVĐCTC – dù bạn sống trong CVĐCTC hay không, bạn tìm thấy một sợi dây liên kết nào đó giữa mình với CVĐC, hãy tham gia cùng 20 năm GGN và các CVĐC toàn cầu UNESCO tại Việt Nam.

  1. Hành trình trải nghiệm Trực quan Trái đất (The Earth Visual Odyssey) dành cho tất cả các nhiếp ảnh gia trên toàn thế giới, không phân biệt tuổi tác.
  2. Câu chuyện của đá (The Stone’s Stories) Dành cho tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác.
  3. 5 Giác quan về Công viên Địa chất của bạn (The 5 Senses of Your Geopark) dành cho các bạn trẻ từ 12-18 tuổi

Để biết thêm thông tin các cuộc thi và đăng ký, xin truy cập https://ggn20anniversary.com/vi

Bên cạnh đó, trong khuôn khổ chào mừng 20 năm GGN, Ngày 10-15/9/2024: Hội nghị chuyên đề Mạng lưới Công viên địa chất Châu Á Thái Bình Dương lần thứ 8 sẽ được tổ chức tại Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Non Nước Cao Bằng, Việt Nam  với chủ đề: “Người dân bản địa và dân tộc thiểu số với sự phát triển bền vững trong vùng Công viên địa chất”. Hội nghị bao gồm các phiên họp chuyên đề với các chủ đề đa dạng, từ giá trị di sản địa chất, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể tới các hoạt động của Công viên địa chất toàn cầu gắn với các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc theo chương trình nghị sự 2030, các hoạt động giáo dục về Công viên địa chất, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu…, các hoạt động trưng bày, gian hàng quảng bá Công viên địa chất.

Chủ đề các phiên hội thảo chuyên đề:

  • Tri thức bản địa và sự tham gia của cộng đồng địa phương trong phát triển CVĐC
  • Giảm nhẹ rủi ro thiên tai, tai biến địa chất và thích ứng với BĐKH
  • Điều tra, đánh giá, bảo tồn và phát huy bền vững giá trị các loại hình di sản
  • CVĐC với các mục tiêu phát triển bền vững
  • Tuyên truyền, quảng bá, giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng ở CVĐC
  • Khó khăn, thách thức ở các khu vực muốn trở thành CVĐC

Thông tin chi tiết tại https://www.apgn2024.vn/vi

#UNESCOGlobalGeoparks, #GlobalGeoparksNetwork, #20thanniversaryggn

Vì sao Đa dạng địa học lại quan trọng?

Vào ngày 06/10/2023, Ngày Quốc tế Đa dạng địa học sẽ được tổ chức lần thứ hai trên thế giới với chủ đề là ” Đa dạng địa học dành cho mọi người”. Chủ đề năm nay phản ánh rằng đa dạng địa học ở xung quanh chúng ta và ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả mọi người dù họ ở đâu trên thế giới. Đây cũng là cơ hội để thúc đẩy sự tham gia rộng rãi hơn vào giáo dục và nghề nghiệp khoa học địa chất. Trong bài viết dưới đây, mời các độc giả cùng Địa môi trường lý giải xem vì sao đa dạng địa học lại quan trọng đối với Trái đất và với chúng ta như vậy. Bài viết được lược dịch từ Website của geodiversity.org.

  1. Điều hòa các quá trình tự nhiên: Đá và các quá trình địa chất đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều hòa. Ví dụ như, dòng chảy của một con sông được điều hòa bởi mực nước dưới đất, vì thế mùa kiệt sông vẫn có thể chảy. Đá và trầm tích cũng đóng vai trò quan trọng trong việc làm sạch nước mặt trước khi vào tầng ngậm nước.

2. Hình thành đất và nông nghiệp: Phong hóa đá là quá trình cơ bản hình thành đất, nền tảng của nông nghiệp, ngành nghề cung cấp cho con người nguồn lương thực, thực phẩm. Cụ thể, đối với một số quốc gia đang phát triển ở châu Phi và những lục địa khác, nâng cao chất lượng môi trường đất và nước, giảm thiểu xói mòn đất  là vô cùng quan trọng và cần thiết.

3. Sự sống trên Trái Đất: Đa dạng địa học là nền móng cho đa dạng sinh học.

4. Sự phát triển kinh tế – xã hội: Loài người cũng dựa vào sự đa dạng về tài nguyên địa chất. Họ đã biết sử dụng tài nguyên khoáng sản từ thuở sơ khai, và bây giờ chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội hiện đại ngày nay. Nếu sử dụng một cách bền vững, nguồn khoáng sản dồi dào tạo nên sự thịnh vượng, phát đạt, môi trường tự nhiên xã hội đầy sức sống và hòa bình.

Ngoài ra, vấn đề phát triển các siêu đô thị về số lượng và quy mô tạo ra thách thức khổng lồ. Sự ứng dụng kiến thức địa học để xây dựng, hỗ trợ công trình kiến trúc cho cơ sở hạ tầng ở mọi kích cỡ: đập, đường xá, đường hầm, tòa nhà, đường băng, bến cảng, đường ống dẫn dầu.

5. Quản lý và ngăn chặn thiên tai: Kiến thức khoa học về các quá trình địa chất địa mạo xảy ra trong tự nhiên vô cùng quan trọng trong việc ngăn chặn thiên tai với con người (động đất, sống thần, núi lửa, lũ lụt, trượt đất) và để hỗ trợ đưa ra các quyết định thông minh về quy hoạch đất đai và quản lý không gian.

6. Dự báo và thích nghi: Khoa học dựa vào đa dạng địa học góp phần hiểu biết về biến đổi khí hậu trong quá khứ. Kiến thức này có thể ứng dụng để hiểu hơn cách khí hậu có thể biến đổi trong tương lai, cho phép con người thích nghi hiệu quả hơn.

7. Lợi ích kinh tế: Đa dạng địa học đặc trưng bởi những cảnh quan tuyệt đẹp như núi, hang động, bờ biển, … phục vụ cho địa du lịch. Điều này tạo ra tiềm năng lợi ích kinh tế và dân địa phương.

8. Giáo dục và thách thức tương lai: Đa dạng địa học hiện diện đầy đủ như một phòng thí nghiệm ngoài trời, cũng là nơi minh họa cho sách giáo khoa, truyền đạt cho các thế hệ sau về lịch sử Trái Đất, làm thế nào để sử dụng bền vững nguồn tài nguyên Trái Đất và cách thức  khoa học cần phải làm để vượt qua những thách thức trong tương lai.

Như vậy, có thể kết luận rằng, đa dạng địa học là nền tảng của cộng đồng, là phần nội tại trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên.

Hãy cùng Địa Môi trường lan tỏa khái niệm này đến mọi người xung quanh bạn nhé.

Let’s Celebrate International Geodiversity Day!

Quế Nam – Phương Chi

Hội thảo khoa học Địa chất Đệ tứ Việt Nam Kết quả nghiên cứu cơ bản và định hướng ứng dụng

Ngày 14/07/2023, Hội thảo khoa học Địa chất Đệ tứ Việt Nam, Kết quả nghiên cứu cơ bản và định hướng ứng dụng đã được tổ chức tại Liên đoàn Bản đồ Địa chất Miền Nam dưới sự phối hợp tổ chức của ba đơn vị và Hội Đệ Tứ – Địa mạo Việt Nam, Liên đoàn Bản đồ Địa chất Miền Nam và Phân viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản phía Nam.

Phần 1- Phát biểu khai mạc, chào mừng Hội thảo. Giới thiệu chương trình, mục tiêu, yêu cầu nghiên cứu Đệ tứ trong giai đoạn mới ở đồng bằng Nam Bộ

Phần 2- Các báo cáo Khoa học tại hội thảo. Tại hội thảo 6 bài báo cáo tham luận của các nhà Khoa học đã được trình bày.

  1. Một số ứng dụng từ cuốn sách “ Địa chất Đệ tứ Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Tâm, 2022 – Trình bày: KS. Nguyễn Đức Tâm
    • Địa chất Đệ tứ Việt Nam là 01 cuốn sách lớn, hệ thống hoá kết quả nghiên cứu hơn nửa thế kỷ về địa chất Đệ tứ ở Việt nam và của chính tác giả . Nội dung vừa có tính khái quát, vừa có những điểm nhấn, cụ thể, chi tiết hoá; có phần ứng dụng và định hướng ứng dụng, đề xuất nghiên cứu tiếp. Khái quát thể hiện ở bản đồ Địa chất Đệ tứ Việt Nam tỷ lệ 1/1.000.000, thang địa tầng và các mặt cắt trầm tích Đệ tứ và các mô tả với rất nhiều ảnh chụp minh hoạ kèm theo ở các đồng bằng và dải đồng bằng lớn. Chi tiết và đặc biệt chi tiết khi xác định, liên hệ các tầng trầm tích, các bậc thềm biển, các di chỉ khảo cổ học với nhau và với các đợt biển tiến Yên Mô tuổi Pleistocen giữa; biển tiến Cát Lâm, Bỉm Sơn, Vĩnh Phúc tuổi Pleistocen muộn; biển tiến Đống Đa, biển lấn Quảng Xương, biển tiến hiện đại tuổi Holocen. Nhiểu vấn đề ứng dụng liên quan với kết quả nghiên cứu tài nguyên, môi trường, văn hoá – lịch sử cũng có trong cuốn sách.
    • Nội dung cuốn sách rất phong phú nhưng trong khuôn khổ Hội thảo, Tác giả tập trung giới thiệu 05 ứng dụng liên quan với cuốn sách của mình: 1)- Tài liệu trầm tích Đệ tứ Việt nam và ứng dụng cho Địa chất thuỷ văn, địa chất công trình, tìm kiếm khoáng sản, nghiên cứu cải tạo thổ nhưỡng; 2)-Tài liệu khảo cổ học và ứng dụng cho nghiên cứu lịch sử hình thành loài người ở Việt Nam và Đông Nam Á; 3)- Tài liệu về biến đổi khí hậu hiện đại vả ưng dụng cho qui hoạch lại sản xuất – dân cư và bảo vệ môi trường vùng miền ven biển; 4)- Về đảo cực từ trường quả đất và ứng dụng để tìm hiểu ảnh hưởng đến môi trường; 5)- Những việc cần làm.
  2. Đặc điểm các trầm tích Holocen ở đồng bằng Thừa Thiên Huế, tai biến địa chất và di sản địa chất liên quan – Trình bày: TS. Vũ Quang Lân
    • TS. Vũ Quang Lân, Liên đoàn trưởng Liên đoàn Bản đồ địa chất Miền Bắc, chủ biên, tác giả của nhiều đề án đo vẽ bản đồ địa chất, tìm kiếm khoáng sản tỷ lệ 1/50.000; trong đó có các đề án ở đồng án ở đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng đồng bằng Thừa Thiên – Huế.
    • Báo cáo tập trung trình bày 03 vấn đề: 1)- Đặc điềm các trầm tích Holocen; 2)-Tai biến địa chất liên quan với các trầm tích Holocen; 3)- Tiềm năng di sản địa chất; du lịch địa chất; đáp ứng lịch văn hoá liên quan với các trầm tích Holocen.
  3. Giới thiệu về Geosite và Geodiversity – Trình bày: PGS.TS Hà Quang Hải
    • PGS.TS. Hà Quang Hải, nguyên là Chủ nhiệm khoa Môi trường, trường Đại học Khoa học Tự nhiên Tp Hồ Chí Minh; cùng với KS. Ma Công Cọ đồng chủ nhiệm đề án đo vẽ địa chất, tìm kiếm khoáng Tp Hồ Chí Minh tỷ lệ 1/50.000, năm 1988; chuyên gia địa mạo – địa chất, môi trường, địa chất môi trường. PGS.TS. Hà Quang Hải là một trong số ít người đã sớm tiếp cận khái niệm Geosite và Geodiversty, đưa chúng vào nghiên cứu, phổ biến, giảng dạy ở Việt Nam, đã hướng dẫn 01 NCS bảo vệ thành công luận án TS về Geosite và Geodiversty.
    • Báo cáo khẳng định Geosite (di sản địa chất) là 01 phần của địa quyển có ý nghĩa quan trọng đặc biệt để nhận thưc về lịch sử trái đất; là 01 dạng tài nguyên địa chất có giá trị, rất có giá trị; cần quan tâm, nghiên cứu, quy hoạch, quảng bá, bảo vệ và bảo tồn, khai thác để phát triển du lịch, kinh tế – xã hội. Các khái niệm Geosite và Geodiversity (đa dạng địa học); các tiêu chí xác định chính, các giá trị bổ sung và mối quan hệ của chúng đối với nhau được trình bày rõ ràng trong báo cáo.
  4. Lựa chọn phương pháp mới trong Lập bản đồ địa chất khoáng sản tỉ lệ 1:50.000 vùng đồng bằng châu thổ Việt Nam – Trình bày: ThS. Nguyễn Thị Thu Thủy
    • ThS. Nguyễn Thị Thu Thuỷ, phó phòng Kỹ thuật Liên đoàn Bản đồ địa chất Miền Nam, rất tâm huyết với việc xây dựng cơ sở dữ liệu, xử lý, chia sẻ, khai thác dữ liệu theo công nghệ tin học 4.0 và các phương pháp nghiên cứu hiện đại.
    • Báo cáo trình bày tại Hội thảo của ThS. Nguyễn Thị Thu Thuỷ, một mặt, nêu những hạn chế của các phương pháp nghiên cứu truyền thống, hạn chế của việc áp dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực địa chất hiện nay; mặt khác, nêu lên sự cần thiết, khả năng và hiệu quả, lợi ích to lớn của việc áp dụng triệt để công nghệ tin học và các phương pháp nghiên cứu hiện đại phục vụ cho việc nghiên cứu địa chất địa chất, khoáng sản, địa chất môi trường đa mục tiêu.
  5. Giới thiệu giải pháp sáng chế “ Đập mở để ngăn thủy triều và giữ nước sông” – Trình bày: TS Hoàng Ngọc Kỷ
    • TS. Hoàng Ngọc Kỷ sinh năm 1936, nhà địa chất lão thành; từng là chủ biên 4 phương án đo vẽ bản đo vẽ địa chất – khoáng sản tỷ lệ 1/200.000 cụm tờ Hà Nội, Hải Phòng – Nam Định, Thanh Hoá –Vinh và Đồng bằng Nam Bộ; là một trong các tác giả của Bản đồ địa chất và Khoáng sản Việt Nam tỷ lệ 1/500.000 – công trình được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ năm 2005. Ông đã có 03 công trình được in ấn, xuất bản: chủ biên chuyên khảo “Loess nguồn gốc gió ở Việt Nam và Đông Nam Á”; tác giả cuốn sách “Địa chất và môi trường Đệ Tứ Việt Nam; tác giả cuốn sách “An ninh Môi trường – Hiểm họa và phương pháp phòng chống”.
    • Báo cáo Giới thiệu giải pháp sáng chế “Đập mở để ngăn thuỷ triều và giữ nước sông” là 01 ý tưởng khoa học liên quan với nền móng công trình; trầm tích và quá trình địa chất, địa mạo, thuỷ văn, thuỷ triều hiện đại. Mục tiêu của giải pháp là chủ động trữ nước ngọt, hạn chế ảnh hưởng của thuỷ triều, xâm nhập mặn; phục vụ sản xuất và dân sinh trên các đồng bằng và đô thi ven biển; bảo đảm giao thông thuỷ; giảm chi phí xây dựng, vận hành, bảo trì đập. Giải pháp đã được Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KH&CN cấp bằng sáng chế độc quyền số 1901 ngày 25/4/2019; ngày 5/4/2023 đã được UBND Tp Hồ Chí Minh cho phép tổ chức nghiên cứu thử nghiệm.
    • Tác giả dự kiến chọn 01 trong 2 cửa kênh: Tham Lương hoặc Gò Công để tổ chức nghiên cứu thử nghiệm, kêu gọi các nhà khoa học chia sẻ, cùng hợp tác lập dự án và nghiên cứu.
  6. Một vài vấn đề từ các kết quả nghiên cứu trượt lở đất, đứt gãy, địa mạo thủy văn – Trình bày: TS. Vũ Văn Vĩnh.
    • TS. Vũ Văn Vĩnh, Phó chủ tịch Hội Đệ tứ – Địa mạo Việt Nam, tác giả thành phần của hơn 15 đề án điều tra nghiên cứu địa chất – khoáng sản, lập bản đồ địa mạo tỷ lệ 1/200.000, 1/50.000; địa chất đô thị tỷ lệ 1/25.000. Là chủ biên hoặc tác giả chính của nhiều đề tài nghiên cứu về môi trường địa chất, tai biến địa chất, địa mạo thuỷ văn; phân tích địa mạo phát hiện, xác định các đứt gãy, miệng núi lửa phục vụ việc tìm kiếm nước dưới đất; xác định và dự báo trượt lở đất, lún sụt đất, biến dạng nền đất.
    • Nứt trượt lở đất ở Đak Nông do 2 nguyên nhân: 1)- Nguyên nhân sâu xa là điều kiện cần cho trượt lở đất – Xung yếu về địa chất và bất ổn về địa mạo. 2)- Nguyên nhân trực tiếp là điều kiện đủ – Tác động bất thường, kích thích như do mưa lớn tập trung dài ngày; do tác động nhân sinh,…Nơi xung yếu về địa chất là nơi có các miệng nón núi lửa, có các đứt gãy, đặc biệt rõ và mạnh mẽ ở nơi chúng tập trung, nơi giao nhau của chúng. Nơi bất ổn về địa mạo là nơi xâm thực sâu hoặc xâm thực ngang cắt vào chúng, cắt chân khối trượt. Các miệng nón núi lửa được nhận dạng dựa trên thuyết hiện tại luận, bắt đầu từ các miệng nón núi lửa tuổi Holocen, Pleistocen muộn. Các đứt gãy được phát hiện, xác định bằng phân tích địa mạo đều có cơ sở địa chất, tài liệu địa chất, địa vật lý kiểm chứng.
    • Dựa theo nguyên nhân đã được xác định năm 2005 phân tích địa mạo đã phát hiện thêm nhiểu cung trượt mới và cũ; đã dự đoán nguy cơ nứt trượt lở đất cho các địa chỉ khu, tuyến, điểm cụ thể. Kết qủa dự báo năm 2005 còn được kiểm chứng là tin cậy khi nứt trượt lở đất xảy ra ở Đak Nông vào tháng 6/2006, tháng 9/2007.
    • Có thể xem nguyên nhân nứt trượt lở đất ở Đak Nông là công thức chung cho việc xác định nguyên nhân, dự báo nứt trượt lở đất ở những vùng phát triển các đá không phải là bazan, dự báo sạt lở bờ sông.
Chụp hình lưu niệm tại Hội thảo
Đến với Hội thảo, thay mặt tập thể tác giả, PGS. TS Tạ Hòa Phương (Chủ biên) và PGS.TS Đặng Văn Bào đã gửi tặng các đơn vị ấn phẩm “ Kỳ quan hang động Quảng Bình Việt Nam”.

Hội thảo sẽ là một bước quan trọng trong việc thúc đẩy sự hợp tác, chia sẻ kiến thức và có thể sẽ tạo ra cơ hội để các nhà khoa học lão thành, đã có tuổi và các thế hệ trẻ thuộc nhiều hướng chuyên sâu khác nhau có thể hợp tác với nhau trong giải quyết các nhiệm vụ quan trọng trong điều tra cơ bản về địa chất nói chung, địa chất Đệ tứ – địa mạo, hướng tới sử dụng bền vững các dạng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và phòng tránh thiên tai.

Hội thảo kết thúc với một số kết luận về những gợi mở cho các hướng nghiên cứu tiếp theo về địa chất Đệ tứ. Trong bối cảnh hội nhập, các kỹ thuật mới không ngừng phát triển sẽ là cơ hội và cũng là thách thức cho ngành Địa chất. Một tín hiệu vui là các vấn đề liên quan đến “địa di sản” đã được trình bày và thảo luận qua hầu hết các chủ đề báo cáo và hứa hẹn sẽ là một định hướng nghiên cứu được các nhà địa chất quan tâm trong thời gian tới đây.

Phương Chi ghi từ Các kết quả của Hội thảo.

HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ HANG ĐỘNG NÚI LỬA LẦN THỨ 20 VÀ HỘI THẢO KHOA HỌC  “15 NĂM PHÁT TRIỂN CÔNG VIÊN ĐỊA CHẤT Ở VIỆT NAM”

Quế Nam

Sáng ngày 22 tháng 11, lễ Khai mạc Hội nghị Quốc tế về Hang động núi lửa lần thứ 20 và Hội thảo Khoa học “15 năm phát triển Công viên địa chất ở Việt Nam” đã diễn tại Trung tâm Hội nghị tỉnh Đắk Nông, thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. 

Buổi lễ được tổ chức với sự có mặt của Đại diện Văn phòng tổ chức UNESCO tại Việt Nam – Ông Christian Manhart, Chủ tịch hiệp hội Hang động Núi lửa Quốc tế  – Ông John Brush, Chủ tịch Hội đồng  Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu – Ông Guy Martini. Cùng với đó là là đại diện ban lãnh đạo tỉnh, ban quản lý CVĐCTC Đắk Nông, các chuyên gia và nhà khoa học hàng đầu về địa chất, núi lửa và hang động núi lửa, sinh học, khảo cổ học, đại diện các CVĐCTC trong nước và trên thế giới.

Phát biểu khai mạc trực tuyến, bộ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi Trường – Phạm Hồng Hà nhấn mạnh sự ủng hộ từ phía Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển các công viên địa chất. Thông qua các di sản địa học, đặc biệt là hang động núi lửa, như những trang nhật ký của lịch sử Trái Đất, giúp con người hiểu rõ hơn quá trình vận động và phát triển của Trái Đất, từ đó có những biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. 

Đây là cơ hội lớn của  Đắk Nông nói riêng và phía tỉnh nhà nói chung trong việc quảng bá và giới thiệu hình ảnh công viên địa chất cùng những di sản địa học, khảo cổ học, văn hóa, các sản phẩm địa du lịch cho bạn bè quốc tế.  

Sau đây là một số hình ảnh của Lễ khai mạc Hội nghị quốc tế về hang động núi lửa lần thứ 20 (20th-ISV) và Hội thảo “15 năm phát triển công viên địa chất ở Việt Nam”. 

Các báo cáo Keynote tại phiên toàn thể: 

Keynote 1: Sustainable use of volcanic caves – an impossible dream? (Sử dụng bền vững hang động núi lửa – một điều không thể?)  –  John Brush  

Mỗi hang động có những đặc điểm cấu tạo khác nhau, vô cùng nhạy cảm và dễ dàng bị tác động bởi yếu tố tự nhiên (thời tiết, rễ cây, sinh vật, …). Khi con người vào tham quan các hang động cũng đã tác động đến bề mặt, kết cấu và sinh vật trong hang. Tại Australia,  các hang được phân làm 5 cấp độ nhạy cảm từ đó quyết định giới hạn lượng khách vào tham quan hang. 

Keynote 2: Pyroducts (lava tubes) their genesis and importance (Ống dung nham- nguồn gốc và tầm quan trọng) – Stephan Kampe 

Ống lava (lave tubes – Pyroducts) vô cùng quan trọng trong việc đánh giá quá trình vận chuyển lava sau khi phun trào. Nguồn gốc của chúng được xét thông qua 2 mặt: thạch học và cấu trúc. Các dữ liệu về cấu trúc mái hang cũng cho biết về cách hình thành hang, từ đó quyết định các sản phẩm bên trong, nhiệt độ, hơi nước, thành phần kim loại,… 

Keynote 3: A personal account of Global Geopark development in last 15 years in the Asia Pacific region (Báo cáo cá nhân cho sự phát triển Công viên địa chất toàn cầu khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong 15 năm) – Xiaochi JIN, Coordinator of Asia Pacific Geoparks Network

Từ năm 2007, mạng lưới Công viên địa chất khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã được thành lập, viết tắt là APGN. Hội nghị chuyên đề lần đầu tiên của APGN được tổ chức tại công viên địa chất Langkawi, Malaysia. Kể từ đó, phân bố các công viên địa chất toàn cầu trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương phân bố nhiều hơn, với sự đa dạng về địa học, sinh học, văn hóa,… Đến năm 2021, đã có 66 công viên địa chất toàn cầu ở 8 quốc gia.  

Một số vấn thách thức mà các CVĐCTC trong mạng lưới AGPN đang đối mặt

  1. Thiếu sự tham gia của cộng đồng địa phương trong việc đưa ra các quyết định và quản lý 
  2. Thiếu động lực mạnh mẽ để đưa ra kế hoạch chiến lược dài hạn và phương thức cho phát triển bền vững 
  3. Thiếu đội ngũ chuyên gia cho phát triển bền vững mặc dù CVĐC có một đội ngũ nhân viên đông  
  4. Vài CVĐC thường chú trọng vào khu vực mà khách tham quan phải trả phí và không quan tâm đến vấn đề phát triển bền vững ở đó. 

Các phiên Hội nghị quốc tế về hang động núi lửa lần thứ 20 (20th-ISV) và Hội thảo “15 năm phát triển công viên địa chất ở Việt Nam” được diễn ra song song từ ngày 22/11 đến 24/11. Tiếp sau đó là chuyến thực địa tham quan các miệng núi lửa tại Công viên địa chất toàn cầu Đắk Nông thuộc huyện Krông Nô từ ngày 25/11 đến 26/11. 

Công viên địa chất toàn cầu Đắk Nông – đánh thức vùng di sản nam Tây Nguyên

Mỹ An

Tháng 7.2020, tổ chức UNESCO đã thông qua quyết định công nhận Công viên địa chất Đắk Nông (Đắk Nông) là Công viên địa chất toàn cầu. Đây là cơ hội để Đắk Nông có thêm điều kiện tốt nhất để bảo tồn các di sản văn hóa, kết hợp phát triển kinh tế bền vững…

Thác Liêng Nung. Ảnh: Hà Thế Bảo

Công viên địa chất toàn cầu là danh hiệu dành cho một khu vực tự nhiên có ranh giới địa lý – hành chính rõ ràng, chứa đựng một tập hợp các di sản địa chất tầm cỡ quốc tế có giá trị khoa học, giáo dục và thẩm mỹ, cùng các giá trị khác về đa dạng sinh học, khảo cổ, lịch sử, văn hóa, xã hội… Tất cả cùng được bảo tồn và phát huy giá trị một cách tổng thể.

Đây là Công viên địa chất toàn cầu thứ ba ở Việt Nam, sau Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang) và Công viên địa chất toàn cầu Non nước Cao Bằng (Cao Bằng).

 

Hồ Tà Đùng. Ảnh: DaknongGeopark

Công viên địa chất là mô hình kết nối và tìm hiểu về sự hình thành của trái đất, thông qua hình thức du lịch địa chất. Là nơi du khách có cơ hội được tìm hiểu về nguồn gốc và đặc điểm cấu tạo của các dạng địa hình. Mô hình này đề cao công tác giáo dục, nâng cao nhận thức cho người dân và du khách để sống chan hòa với thiên nhiên, biết trân trọng những giá trị và tài nguyên của tạo hóa. 

Công viên địa chất Đắk Nông nằm ở phía Tây Nam của vùng Tây Nguyên, đoạn cuối dãy Trường Sơn với ranh giới trải dài trên 5 huyện và 1 thị xã gồm huyện Krông Nô, Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Song, Đắk G’Long và thị xã Gia Nghĩa.

Là một phần của cao nguyên M’Nông nên thơ, hùng vĩ, Công viên địa chất Đắk Nông là nơi hội tụ các giá trị tiêu biểu về địa chất địa mạo, khảo cổ, văn hóa và đa dạng sinh học đặc trưng của khu vực.

Thác nước D’ray Sáp. DaknongGeopark

Được hình thành từ triệu triệu năm trước do quá trình vận động của vỏ trái đất, song hệ thống hang động trong đá bazan khu vực Đray Sáp-Chư R’Luh chỉ mới được phát hiện từ năm 2007.

Hệ thống hang động núi lửa này đã được Hiệp Hội Hang động Núi lửa Nhật Bản xác lập kỷ lục Đông Nam Á về cả quy mô, độ dài và tính độc đáo. Trong các hang động còn ẩn chứa nhiều điều bí mật về cơ chế thành tạo, các tổ hợp khoáng vật, đa dạng sinh học và di chỉ khảo cổ…

Vũ điệu cồng chiêng. Ảnh: Daknonggeopark

Trong khu vực Công viên địa chất còn có các di sản địa kiểu cổ sinh như các hóa thạch Cúc đá, các khuôn cây trong đá bazan; có các dãy núi cao phân bậc địa hình, các hồ nước tự nhiên đầy thơ mộng như hồ Ea Snô, hồ Trúc, hồ Tây… các miệng núi lửa độc đáo và đặc trưng như Chư R’luh, Nâm Kar, Băng Mo…. và hệ thống các thác nước đẹp, hùng vĩ như thác Gia Long, thác Băng Rúp, Dray Sáp…

Công viên địa chất Đắk Nông còn là khu vực có bề dày văn hóa, lịch sử, với những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể như: Không gian Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; di tích cấp quốc gia đặc biệt Đường mòn Hồ Chí Minh và 5 di tích cấp quốc gia khác như: Ngục Đắk Mil, Căn cứ kháng chiến B4 – Liên tỉnh IV, Di tích lịch sử lưu niệm N’Trang Gưh, Địa điểm Chiến thắng Đồi 722 – Đắk Sắk, Địa điểm bắt liên lạc khai thông đường Hồ Chí Minh đoạn Nam Tây Nguyên đến Đông Nam Bộ.

Thác Liêng Nung. Ảnh: Hà Thế Bảo

Với nhiều trầm tích văn hóa, sự hoang sơ độc đáo của Công viên địa chất toàn cầu chắc chắn sẽ hấp dẫn du khách, là cơ hội để phát triển kinh tế – du lịch. Tuy nhiên cũng đặt ra cho địa phương này trách nhiệm nặng nề trong quá trình bảo tồn và khai thác để đảm bảo không tác động tiêu cực vào thiên nhiên, nhưng đồng thời tạo được sức hút lớn để phát triển kinh tế.

https://dulich.laodong.vn/diem-den/cong-vien-dia-chat-toan-cau-dak-nong-danh-thuc-vung-di-san-nam-tay-nguyen-831347.html

Thế giới trong mắt nhiếp ảnh gia biết bay

Nhìn thế giới từ trên cao, George Steinmetz từ một nhiếp ảnh gia, vô tình trở thành nhà hoạt động vì môi trường.

Năm 1997, George Steinmetz, nhiếp ảnh gia đến từ New Jersey, quyết định học bay khi đảm nhận một dự án chụp ảnh tại vùng trung tâm Sahara và phi công riêng của ông đã xin rút. Nhưng thứ George chọn không phải là máy bay, mà là một chiếc dù lượn gắn động cơ.

“Ban đầu tôi tìm hiểu về dù lượn vì muốn bay ở Sahara, và đó là nơi gần như tôi có thể cất cánh hay hạ cánh ở bất kỳ đâu, vì nó là một địa hình khá an toàn để dùng một phương tiện gắn mô-tơ không đáng tin cậy”, George nói.

George Steinmetz bay dù lượn tại Giza, Ai Cập. Ảnh: Gaetan Hutter.

Ông ví dù lượn như “chiếc ghế vải bay”, để ông có thể bay thấp và chậm trên mặt đất mà không làm phiền người khác hay động vật bên dưới. Nó có thể được tháo dỡ dễ dàng và chia thành ba kiện, mỗi cái nặng chưa đến 20 kg. Do đó, George có thể mang theo “phi cơ của riêng mình” trên bất kỳ chuyến bay thương mại nào.

Từ đó, George, còn có biệt danh là “nhiếp ảnh gia bay”, ghi lại những khung cảnh đẹp nhất vòng quanh thế giới và tập hợp lại trong cuốn sách The Human Planet: Earth at the Dawn of the Anthropocene (tạm dịch là Hành tinh của con người: Trái Đất vào buổi bình minh của kỷ Nhân Sinh).

Với dù lượn, trực thăng và những chiếc drone chuyên nghiệp, George không chỉ hé lộ những kỳ quan thiên nhiên độc đáo, mà còn ghi lại dấu vết khổng lồ của cuộc sống thường ngày. Nhiếp ảnh gia bay chụp ảnh từ những bể muối sặc sỡ tại Teguidda-n-Tessoumt, Nigeria, cho đến cảnh người nông dân trồng lại cây cọ ở Sapi, Malaysia; hay buổi chôn cất hàng loạt nạn nhân của đại dịch Covid-19 trên đảo Hart, New York, Mỹ – độc giả sẽ không thể thấy những hình ảnh này vì cảnh sát đã tịch thu drone của ông.

Từ dù lượn của mình, George chụp được một bức tranh màu sắc tạo nên từ những hố cạn do người dân tự đào để lấy chất khoáng rắn cho gia súc. Màu sắc của từng hố phụ thuộc vào hỗn hợp bùn, tảo và muối ở Teguidda-n-Tessoumt, Nigeria. Ảnh: George Steinmetz.

Dù drone hỗ trợ ông quay chụp phần lớn thời gian do tính năng vượt trội và đảm bảo an toàn, George thực sự quý trọng những tấm ảnh tự mình thực hiện khi bay dù lượn. “Bạn có thể mang theo camera lên cao, song thật khác biệt khi dùng drone. Nhưng drone như một chiếc kính tiềm vọng bay trên trời, và bạn chỉ có thể nhìn thấy những thứ hiển thị trên màn hình chứ không bao quát mọi thứ bên ngoài”, nhiếp ảnh gia Mỹ nhận định.

Ông cũng cho rằng: “Dù lượn thực sự tuyệt vời vì tầm nhìn của bạn không bị giới hạn dù theo bề ngang hay phương thẳng đứng. Như một chiếc môtô bay vậy, mọi thứ ở xung quanh, và bạn cũng có mặt giữa không gian đó”.

Nông dân trồng cây sử dụng giếng tưới nhân tạo ngoài rìa sa mạc Rub’ al Khali, Saudi Arabia. Ảnh: George Steinmetz.

Đồng bằng nơi sông Colorado đổ ra vịnh California, đây là khu vực từng có hệ sinh thái phong phú. Tuy nhiên khi các con đập, dự án thuỷ lợi được xây dựng để đưa nước về các thành phố vào thế kỷ 20, lưu vực sông đã thay đổi. Ảnh: George Steinmetz.

Đồn điền cọ tại Sapi, Sabah, Malaysia. Việc phá rừng mưa để trồng đồn điền cọ lấy dầu đã tàn phá hệ sinh thái tự nhiên. Ảnh: George Steinmetz.

Những nhà kính lợp mái nhựa ở miền nam Tây Ban Nha. Nơi này chủ yếu trồng cà chua, ớt ngọt, dưa chuột, cà tím… canh tác tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, mô hình nông nghiệp này bị chỉ trích vì khai thác cạn kiệt nước ngầm, gây ô nhiễm nitrat và bóc lột lao động nhập cư. Ảnh: George Steinmetz.

Trang trại bò sữa ở Wisconsin, Mỹ với hơn 3.300 chuồng nuôi nhốt. Ảnh: George Steinmetz.

George đánh giá cao những trải nghiệm trực tiếp giúp mở mang tầm mắt. Ông viết trong cuốn sách của mình: “Tôi cho rằng sự thật là điều tối quan trọng, và tôi cần tự mình trải nghiệm nhiều thứ”. Và những điều đã trải qua tạo ra một thay đổi, để ông vô tình trở thành một nhà bảo vệ môi trường.

“Tôi nhận ra dân số toàn cầu đang gia tăng, và nơi ở của động vật hoang dã dần biến mất, và con người đang tiêu tốn tài nguyên của trái đất ở tốc độ chóng mặt… Nó dần trở nên rõ ràng rằng con người đang bước vào một thời kỳ của những giới hạn – bởi chúng ta không thể tiếp tục sử dụng tài nguyên ở tốc độ như hiện nay nếu có mong muốn thế hệ sau còn một hành tinh để sống”, ông nhìn nhận.

Bảo Ngọc (Theo Alas Obscura)

https://vnexpress.net/the-gioi-trong-mat-nhiep-anh-gia-biet-bay-4119885.html

Ảnh vệ tinh cho thấy Covid-19 có thể xuất hiện ở Vũ Hán từ tháng 8/2019

Nghiên cứu của Trường Y, Đại học Harvard, sử dụng ảnh vệ tinh và xu hướng tìm kiếm trên mạng cho thấy Covid-19 có thể đã lây lan ở Trung Quốc từ tháng 8/2019.

Nghiên cứu mới chỉ ra số lượng ôtô trong bãi đậu xe 5 bệnh viện ở Vũ Hán từ đầu tháng 8/2019 cao đáng kể so với mùa hè và mùa thu năm trước. “Lượng xe tăng mạnh từ tháng 8/2019 và đạt đỉnh vào tháng 12/2019”, nhóm nghiên cứu do giám đốc sáng tạo Bệnh viện Nhi Boston John Brownstein dẫn đầu, viết trong một bản tin được đăng trên cổng thông tin DASH của Đại học Harvard, Mỹ, hôm 8/6.

Trong ảnh vệ tinh tháng 10/2018, các nhà nghiên cứu đếm được 171 ôtô trong các bãi đậu ở Thiên Hựu, bệnh viện lớn nhất Vũ Hán. Ảnh vệ tinh một năm sau cho thấy 285 ôtô trong cùng các bãi đậu, tăng khoảng 67%, cũng như lưu lượng giao thông tăng 90% cùng thời điểm tại các bệnh viện khác ở Vũ Hán.

“Các bệnh viện riêng lẻ ghi nhận số ngày có lượng xe tương đối cao trong cả mùa thu và mùa đông 2019. Tuy nhiên, từ tháng 9 đến tháng 10/2019, 5 trong số 6 bệnh viện cho thấy lượng xe đậu trong bãi hàng ngày cao nhất trong loạt phân tích, trùng thời điểm mức độ tìm kiếm trên Baidu tăng cao đối với các từ khóa ‘tiêu chảy’ và ‘ho'”, nhóm nghiên cứu viết.

Số lượng xe trong các bãi đậu tại bệnh viện Thiên Hựu tại hai thời điểm tháng 10/2018 và tháng 10/2019. Ảnh: ABC News.

“Đây là tất cả những gì nỗ lực ghép mảnh một câu đố phức tạp về những gì đang diễn ra vào thời điểm đó”, Brownstein nói. “Dữ liệu đặc biệt hấp dẫn bởi chúng tôi thấy sự gia tăng tìm kiếm bệnh về đường tiêu hóa, tiêu chảy, ở mức độ chúng tôi chưa từng thấy trong lịch sử. Bây giờ chúng tôi biết chắc rằng các triệu chứng về tiêu hóa là triệu chứng ban đầu quan trọng của Covid-19. Một tỷ lệ lớn người dương tính nCoV ở Vũ Hán thực sự có triệu chứng tiêu chảy”.

Brownstein và nhóm của ông đã dành hơn một tháng để cố gắng xác định các dấu hiệu khi dân số tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc bắt đầu bị ảnh hưởng. Logic dự án nghiên cứu của Brownstein rất đơn giản: các bệnh về đường hô hấp dẫn đến các loại hành vi rất đặc trưng trong các cộng đồng chúng lây lan. Vì vậy, những bức ảnh thể hiện những kiểu hành vi đó có thể giúp giải thích những gì đang xảy ra ngay cả khi người bị bệnh không nhận ra vấn đề rộng lớn hơn.

“Những gì chúng tôi đang cố gắng làm là xem xét các hoạt động, một bệnh viện bận rộn như thế nào”, Brownstein nói. “Và cách chúng tôi làm là đếm xe ở bệnh viện đó. Bãi đậu xe sẽ đầy ắp khi bệnh viện bận rộn. Vì vậy, nhiều xe hơi trong bệnh viện, bệnh viện bận rộn hơn, có khả năng do điều gì đó đang xảy ra trong cộng đồng, sự lây nhiễm gia tăng và mọi người phải đi khám bác sĩ”.

Sử dụng “luồng dữ liệu hợp lệ” để giám sát bệnh hô hấp không mới và nó cũng là một kỹ thuật được các cơ quan tình báo sử dụng.

“Cả hai ý tưởng bãi đậu xe bệnh viện hoặc doanh nghiệp có thể được sử dụng có thể là dấu hiệu tương đối cho điều gì đó xảy ra trong dân số”, Brownstein cho hay. “Chúng tôi đã công bố những năm trước việc phát hiện các bệnh viện ở Mỹ Latinh đông đúc trong mùa cúm. Bạn có thể dự đoán cúm mùa chỉ cần nhìn vào các bãi đậu xe. Và đó là ý tưởng trong nghiên cứu này”.

Theo Brownstein, nhóm hiện chưa thể chứng minh rõ ràng điều gì đã dẫn đến những tín hiệu này nhưng nó làm tăng thêm bằng chứng cho thấy điều gì đó đang xảy ra trước khi nó chính thức được thừa nhận.

Sự thay đổi số lượng xe trong các bãi đậu tại bệnh viện Trung Nam ở Vũ Hán vào tháng 10/2018 và tháng 10/2019. Ảnh: ABC News.

“Dù chúng tôi không thể xác nhận liệu sự tăng số lượng có liên quan trực tiếp đến Covid-19, bằng chứng của chúng tôi hỗ trợ công việc gần đây khác rằng virus đã xuất hiện trước khi được xác định tại chợ hải sản Hoa Nam”, theo Brownstein và nhóm của ông. “Những phát hiện này cũng chứng thực giả thuyết virus xuất hiện tự nhiên ở miền nam Trung Quốc và có khả năng đã lây lan cùng thời điểm cụm dịch Vũ Hán”.

Brownstein cho rằng những dấu hiệu ban đầu của đại dịch đã bị bỏ qua dễ dàng. “Nếu điều tương tự xảy ra ở Mỹ, rất có thể chúng ta cũng bỏ lỡ những tín hiệu này. Vì vậy, tôi nghĩ rằng chúng ta cần tăng cường các nỗ lực y tế công cộng và giám sát sức khỏe cộng đồng”, nhà nghiên cứu cho hay.

Covid-19 đã xuất hiện tại hơn 210 quốc gia, vùng lãnh thổ, khiến gần 7,2 triệu người nhiễm và gần 409.000 người tử vong. Mỹ, vùng dịch lớn nhất thế giới, phát hiện ca nhiễm đầu tiên hồi tháng 1 tại thành phố Seattle, bang Washington.

Huyền Lê (Theo CNN, ABC News)

https://vnexpress.net/covid-19-co-the-xuat-hien-o-vu-han-tu-thang-8-2019-4112689.html

MỨC ĐỘ QUÁ TẢI DÂN SỐ VIỆT NAM NĂM 2018 DỰA VÀO DẤU CHÂN SINH THÁI VÀ SỨC TẢI SINH HỌC

Nguyễn Trường Ngân

1.Mở đầu

Theo Mạng lưới Dấu chân Toàn cầu (GFN), quá tải dân số (overpopulation) xảy ra khi nhu cầu của con người vượt quá khả năng cung cấp hoặc tái tạo tài nguyên của sinh quyển [4]. Quá tải dân số không chỉ phụ thuộc ở kích cỡ hay mật độ dân số, mà còn vào tỷ lệ giữa dân số so với khả năng cung cấp hay tái tạo tài nguyên trái đất khu vực đó. Một khi quá tải dân số xảy ra, sự tàn phá môi trường sẽ diễn ra nhanh hơn khả năng phục hồi của tự nhiên.

Phương pháp tính toán sự quá tải dân số phổ biến trên thế giới hiện nay là đo lường thông quá việc so sánh giữa Dấu chân sinh thái (Ecological Footprint) và Sức tải sinh học (Biocapacity) của một khu vực tại một thời điểm.

Dấu chân sinh thái (EF): Đo lường diện tích bề mặt đất và nước cần để sản xuất tất cả các tài nguyên cần thiết và hấp thụ toàn bộ chất thải của một cá nhân/địa phương/quốc gia tại thời điểm tính toán [5].

Sức tải sinh học (BC) Đo lường khả năng sản xuất các tài nguyên của đáp ứng nhu cầu của con người và hấp thụ chất thải do con người tạo ra của hệ sinh thái tại khu vực nghiên cứu vào thời điểm tính toán [5].

Dấu chân sinh thái và Sức tải sinh học đều được đo lường bằng đơn vị hecta toàn cầu (global hectare – gha) và đều căn cứ vào công nghệ khai thác và năng lực quản lý tài nguyên vào thời điểm tính toán tại khu vực nghiên cứu. Hecta toàn cầu (gha) là khả năng cung cấp sinh học của một loại đất quy ra năng suất sinh học trung bình trên thế giới tại một thời điểm. Ví dụ, đất trồng trọt có năng suất sinh học cao hơn đất đồng cỏ, do vậy, 1ha đất trồng trọt sẽ có diện tích lớn hơn 1ha đất đồng cỏ khi quy đổi sang gha. Tương tự vậy, đất trồng trọt ở Việt Nam có năng suất sinh học cao hơn đất trồng trọt ở Indonesia, do vậy khi quy đổi cùng một diện tích vật lý, đất trồng trọt tại Việt Nam sẽ có giá trị gha lớn hơn tại Indonesia.

Năm 2016, GFN đã đề xuất 5 thành phần để tính toán EF và BC cho quy mô quốc gia và khu vực, bao gồm: (i) trồng trọt và chăn nuôi, (ii) lâm nghiệp, (iii) thủy sản, (iv) xây dựng, và (v) phát thải carbon (hình 1)

Hình 1. Năm thành phần của Dấu chân sinh thái. Nguồn: GFN, 2016 [2]

Năm 2019, GFN công bố bản đồ thiếu hụt/dư thừa sinh học quy mô quốc gia cho 234 quốc gia và vùng lãnh thổ (hình 2). Từ kết quả tính toán, GFN đã kết luận: “Con người hiện đang sử dụng một lượng bằng 1,75 lần trái đất để cung cấp tài nguyên và chứa đựng chất thải. Điều này nghĩa là trái đất phải mất một năm và chín tháng để tái tạo lại những gì chúng ta sử dụng trong một năm”. Theo kết quả này, Việt Nam với tỷ lệ thiếu hụt – 110%, thuộc nhóm phân loại thiếu hụt cao (quá tải dân số cao).

Hình 2. Bản đồ thiếu hụt/ dư thừa sinh học năm 2019 quy mô quốc gia. Nguồn: GFN, 2019 [3]
2.Mục tiêu

Nghiên cứu này sử dụng số liệu thống kê của Tổng cục thống kê năm 2018 để tính toán Dấu chân sinh thái và Sức tải sinh học, từ đó phân tích mức độ quá tải dân số và thành lập bản đồ mức độ quá tải dân số. Việc tính toán chi tiết tới đơn vị hành chính cấp tỉnh (tỉnh, thành phố thuộc trung ương).

3.Phương pháp

Lưu đồ thu thập và xử lý số liệu được thực hiện qua các bước như hình 3.

Hình 3. Lưu đồ quy trình nghiên cứu

Bước 1. Thu thập dữ liệu. Các dữ liệu thu thập ở 5 lĩnh vực sử dụng tài nguyên và 3 quy mô.

– Quy mô toàn cầu: hệ số quy đổi từ ha về gha (EQF) của các lĩnh vực sử dụng tài nguyên (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản, xây dựng) [4] và phát thải carbon [1].

– Quy mô cả nước: các số liệu về năng suất trung bình các lĩnh vực sử dụng tài nguyên [6] và hệ số phát thải carbon trung bình [1].

– Quy mô cấp tỉnh: số liệu về diện tích, tổng sản lượng, năng suất [6], [7].

– Bản đồ hành chính 63 tỉnh thành, tỷ lệ 1: 1.000.000.

Bước 2. Tính toán Dấu chân sinh thái (EF) theo công thức sau:

Bước 3. Tính toán Sức tải sinh học (BC) theo công thức

Các lĩnh vực để tính EF và BC sử dụng các số liệu thống kê như bảng sau:

Bảng 1. Chỉ dẫn nguồn số liệu tính toán EF và BC

Một số lưu ý trong tính toán EF và BC:

– Đối với lĩnh vực xây dựng: theo lý giải của GFN, do phần lớn đất xây dựng có nguồn gốc từ đất trồng trọt, do đó: YF xây dựng = YF trồng trọt và EQF xây dựng = EQF canh tác [4].

– Phát thải CO2: chỉ tính EF, giá trị BCCO2 = 0 [4].

Bước 4. Tính tỷ lệ thiếu hụt và phân cấp mức độ quá tải dân số (OD) theo công thức:

OD (%) sau đó được phân cấp thành 5 cấp độ như bảng sau:

4.Kết quả và thảo luận

Kết quả tính toán và biên tập được trình bày thành sản phẩm cuối như hình sau:

Hình 4. Bản đồ mức độ quá tải dân số của 63 tỉnh thành Việt Nam năm 2018

4.1. Dấu chân sinh thái EF

Dấu chân sinh thái của cả nước năm 2018 tính được là 95,35 triệu gha (tương đương 1,0 gha/người). Tỉnh có dấu chân lớn nhất là Hà Nội (4,5 triệu gha) và TP.HCM (4,3 triệu gha). Tỉnh có dấu chân nhỏ nhất là Bắc Kạn (0,35 triệu gha). Tuy nhiên, nếu tính dấu chân bình quân đầu người thì tỉnh có dấu chân lớn nhất là Tây Ninh (2,19 gha/người) và tỉnh có dấu chân nhỏ nhất là TP.HCM (0,5 gha/người).

4.2. Sức tải sinh học BC

Sức tải sinh học cả nước năm 2018 tính được là 54,74 triệu gha (tương đương 0,58 gha/người). Tỉnh có sức tải lớn nhất là Đăk Lăk (3,05 triệu gha). Tỉnh có sức tải nhỏ nhất là TP.HCM (0,2 triệu gha). Nếu tính sức tải bình quân đầu người thì tỉnh có sức tải lớn nhất vẫn là Đăk Lăk (1,59 gha/người) và tỉnh có sức tải nhỏ nhất vẫn là TP.HCM (0,02 gha/người).

4.3. Mức độ quá tải dân số

Xét tổng thể cả nước, tỷ lệ quá tải OD = -74,17%, mức độ quá tải trung bình. Kết quả tính toán này thấp hơn một cấp so với kết quả tính toán của GFN.

Chưa quá tải dân số (cấp I): có 8 tỉnh (Hà Giang, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Đăk Lăk và Đắc Nông), chiếm 8,2% về dân số và 18,9% về diện tích của cả nước. Tỉnh có mức độ quá tải thấp nhất là Quảng Bình với giá trị OD là 31,25%.

Quá tải dân số rất cao (cấp V): có 11 tỉnh (Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Bắc Ninh, TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai và Bến Tre), chiếm 7,48% về diện tích nhưng lại chiếm đến 34,64% về dân số của cả nước. Tỉnh có mức độ quá tải cao nhất là TP.HCM với OD = – 2.400%.

5.Kết luận

Cũng như nhận định của GFN đối với thế giới, tại Việt Nam, Người dân hiện đang sử dụng một lượng bằng 1,75 lần diện tích lãnh thổ để cung cấp tài nguyên và chứa đựng chất thải. Điều này nghĩa là tự nhiên phải mất một năm và chín tháng để tái tạo lại những gì chúng ta sử dụng trong một năm.

Ở quy mô địa phương, TP.HCM đã sử dụng đến 25 lần khả năng của tự nhiên, nghĩa là tại đây, tự nhiên phải mất 25 năm để tái tạo lại những gì chúng ta đã sử dụng trong 1 năm. Con số này tương ứng ở Hà Nội là 5 năm.

Tài liệu tham khảo

[1] GCP, 2019, Fossil Fuels Emissions 2018, http://globalcarbonatlas.org/en/CO2-emissions

[2] GFN, 2016, How the Footprint Works, https://www.footprintnetwork.org/our-work/ecological-footprint/.

[3] GFN, 2019, Global Ecological Deficit/Reserve Map, http://data.footprintnetwork.org/#/?

[4] Lin, D., 2019. Working Guidebook to the National Footprint and Biocapacity Accounts, working paper, Version 1.3, Global Footprint Network.

[5] Schaefer, F., 2006. Ecological Footprint and Biocapacity: The world’s ability to regenerate resources and absorb waste in a limited time period, European Communities.

[6] Tổng cục thống kê, 2019, Niên giám thống kê Việt Nam, NXB. Thống kê.

[7] Tổng cục thống kê, 2020, Tư liệu kinh tế – xã hội 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, NXB Thống kê.

Sông Mekong: Cần sự minh bạch, hợp tác về nguồn nước

HỒNG VÂN thực hiện

TTCT – Trong một cuộc trao đổi trực tuyến ngày 7-5, các chuyên gia – tác giả chính của một nghiên cứu mới (công bố ngày 10-4) về Giám sát lượng nước tự nhiên chảy từ thượng nguồn lưu vực sông Mekong trong điều kiện tự nhiên đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự minh bạch và hợp tác về nguồn nước trong khu vực.

Nghiên cứu trên đã đưa ra nhiều bằng chứng và dữ liệu hệ thống về việc các đập thủy điện Trung Quốc tích nước, góp phần làm tình trạng hạn hán ở các nước Thái Lan, Campuchia, VN thêm trầm trọng.

Cụ thể, từ tháng 4 – 9, cập nhật đến tháng 11-2019, phần thượng nguồn Mekong ở phía Trung Quốc có lượng mưa cao hơn bình thường nhưng các đập thủy điện ở nước này đã giữ lại số lượng nước đáng kể trong bối cảnh hạn hán khốc liệt ở hạ nguồn. Kết quả đo tại trạm Chiang Saen (Thái Lan) cho thấy mực nước sông không đủ để dâng cao trong mùa mưa.

Lẽ ra, lượng mưa và tuyết tan từ Trung Quốc đủ để mực nước ở đa số các nơi hạ lưu sông Mekong cao hơn trung bình từ tháng 4-2019 đến tháng 3-2020, nếu các đập thủy điện ở Trung Quốc không tích nước.

TTCT trò chuyện cùng tác giả chính của nghiên cứu, ông Alan Basist – chủ tịch Công ty Eyes on Earth Inc (chuyên nghiên cứu và tư vấn về nước) và ông Brian Eyler – giám đốc Chương trình Đông Nam Á, Trung tâm nghiên cứu Stimson (Mỹ), về ý nghĩa của nghiên cứu này.

Thưa ông Alan Basist, ông có thể nói về quá trình thực hiện nghiên cứu này?

– Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này đầu năm 2019 với ý tưởng giám sát lượng nước chảy từ thượng nguồn sông Mekong (sông Lan Thương, theo tên gọi ở Trung Quốc) tại một vị trí cửa ngõ là trạm đo Chiang Sean. Dữ liệu mực nước sông trung bình đo hằng ngày ở trạm này được thu thập từ tháng 1-1992 đến tháng 9-2019, do Ủy hội sông Mekong quốc tế (MRC) cung cấp.

Phần phía trên trạm Chiang Sean gồm toàn bộ chiều dài con sông Lan Thương và một phần sông Mekong chảy qua Myanmar và Lào nhưng ở đây, không có phụ lưu nào chảy vào dòng chính.

Chúng tôi cố gắng tìm hiểu điều này với mục tiêu thúc đẩy sự minh bạch. Khi có thể xác định được lượng nước tự nhiên của dòng sông, những thảo luận về cách phân phối nguồn nước giữa các quốc gia chia sẻ dòng Mekong sẽ trung thực hơn. Do đây là một nghiên cứu nhỏ, hạn chế về phạm vi, chúng tôi chỉ tập trung vào khu vực thượng nguồn.

Nghiên cứu dựa vào dữ liệu vệ tinh cần tham chiếu với số liệu mặt đất. Ông có được tiếp cận với các dữ liệu cần thiết về việc vận hành chuỗi đập của Trung Quốc để tham chiếu cho nghiên cứu của mình không?

– Trung Quốc không cung cấp dữ liệu này. Đây chính là vấn đề. Chúng tôi đã xác thực dữ liệu từ cảm biến vệ tinh với dữ liệu của trạm đo tại Chiang Sean và số liệu này là quan trọng nhất, phản ánh lượng nước thực sự ở biên giới Thái Lan.

Mối quan hệ giữa dữ liệu vệ tinh và dòng chảy tự nhiên trong mô hình của chúng tôi phù hợp tuyệt vời với nhau, ổn định, có chu kỳ cao thấp hằng năm phù hợp với dòng chảy tự nhiên. Sau đó, chúng tôi đối chiếu với độ cao mực nước sông ở trạm Chiang Sean. Đây là nguồn số liệu mặt đất chính xác và là giá trị của mô hình của chúng tôi.

Ông Alan Basist. Ảnh: NVCC

MRC đã phản hồi nghiên cứu của ông vào ngày 21-4. Ông có ý kiến gì về những phản hồi đó?

– Nghiên cứu của chúng tôi phối hợp với MRC từ đầu. MRC khuyến khích chúng tôi thực hiện nghiên cứu này và cung cấp dữ liệu cho chúng tôi. Tôi trình bày về nghiên cứu của mình ở Hà Nội vào tháng 12-2019 với dữ liệu tính đến tháng 3 cùng năm để chứng minh chỉ số độ ẩm là đáng tin cậy để giám sát dòng chảy tự nhiên và hiểu sự khác biệt giữa dòng chảy tự nhiên và lượng nước đo được ở trạm Chiang Sean. Một đại diện của MRC tại buổi trình bày đề nghị tôi mở rộng nghiên cứu, xem xét toàn bộ mùa khô năm 2019 để biết lượng nước chảy từ Trung Quốc xuống là nhiều hay ít.

Thưa ông Brian Eyler, nghiên cứu tập trung vào 6 tháng trong một năm đặc biệt (năm hạn hán, ít mưa). Còn tác động của đập thủy điện ở Trung Quốc trong năm bình thường đối với ĐBSCL sẽ như thế nào?

– Dù là năm nào, các đập thượng nguồn của Trung Quốc đều có tác động đến ĐBSCL. Các đập thủy điện của Trung Quốc tác động đến sông Mekong ở ĐBSCL bằng cách tích nước hoặc xả nước. Trong 30 năm qua, Trung Quốc tích nước nhiều hơn là xả nước. Trong những năm hạn nghiêm trọng và trong mùa khô, lượng nước từ Trung Quốc chảy về hạ lưu từ 40% hoặc hơn so với phần còn lại của lưu vực.

Vì vậy, trong mùa khô, tác động từ thượng nguồn do việc hạn chế dòng chảy có khả năng ảnh hưởng lớn hơn so với các tác động này trong mùa mưa. Tác động của việc tích nước trong mùa khô làm tăng nhiễm mặn ở ĐBSCL, buộc người dân phải khai thác một lượng lớn nước ngầm do thiếu nước ngọt.

Trung Quốc có thể giữ nước phía sau các con đập của họ. Điều gì xảy ra với khối lượng nước này, cuối cùng thì nước chảy đi đâu?Ngoài ra, tác động tổng hợp lớn nhất của các đập thủy điện ở Trung Quốc là loại bỏ phù sa khỏi hệ thống sông Mekong vì 60% lượng trầm tích của dòng chính sông Mekong đến từ Trung Quốc. Phù sa rất quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL, là yếu tố rất quan trọng làm cho ĐBSCL vững chắc hơn trước những đe dọa của biến đổi khí hậu. Khi phù sa bị mất đi, ĐBSCL không còn được bồi đắp, nơi này sẽ bị suy yếu về mặt địa chất, dễ bị xói mòn và lún thấp hơn mực nước biển.

– 5 con đập đã được xây dựng trong 5 năm qua ở thượng nguồn sông Mekong đều có hồ chứa lớn. Nước có khả năng nằm trong các hồ chứa này ở thượng nguồn. Các đập trên sông Lan Thương thường không sử dụng để sản xuất thủy điện nên nước không thường xuyên chạy qua các tuôcbin, trừ khi ở thượng nguồn hoặc hạ nguồn cần xả nước. Các con đập ở thượng nguồn có vai trò như nguồn dự trữ nước cho tương lai của Trung Quốc với cái giá mà các nước hạ nguồn gánh chịu.

Đập Cảnh Hồng của Trung Quốc quả thực có xả nhiều nước hơn trung bình trong mùa khô (cuối tháng 1-2020), giúp mực nước trung bình trên sông Mekong tăng lên nhưng chỉ số ở các trạm đo tại Tân Châu, Châu Đốc ở ĐBSCL cho thấy lượng nước này không đến VN.

Tôi không thấy có bằng chứng nào về việc Trung Quốc tháo nước từ sông Lan Thương sang các lưu vực sông khác ở đại lục. Cho đến nay, điều này là không thể về mặt kỹ thuật, nhưng không có nghĩa là nó không được khắc phục trong tương lai khi tài nguyên nước ở Trung Quốc cạn kiệt dần theo thời gian.

Ông Brian Eyler. Ảnh: NVCC

Có khả năng nước được dùng như một loại vũ khí như tích trữ trong mùa khô hạn hoặc xả thêm trong mùa lũ không, thưa ông?

– Trước khi có báo cáo này, tôi sẽ trả lời “KHÔNG” với câu hỏi trên. Nhưng bằng chứng khoa học đã thay đổi suy nghĩ của tôi. Năm ngoái, Trung Quốc đã giữ rất nhiều nước trong mùa mưa, vốn là một năm ít mưa ở hạ lưu sông Mekong, phá vỡ chu kỳ nước sông dâng lên.

Liệu Trung Quốc có làm điều này và sử dụng nước như một loại vũ khí hay không còn phải lý giải. Tôi cho rằng sự kiện đã xảy ra có thể do thiếu sót về thông tin hoặc thiếu phối hợp giữa các đơn vị vận hành đập và chính quyền trung ương ở Bắc Kinh.

Nhưng qua đó ta thấy những thiếu sót ở Trung Quốc có khả năng can thiệp sâu vào sự sống còn của sông Mekong, dòng chính. Ngoài ra, có báo cáo về việc xả nước đột ngột liên quan đến các con đập mới. Một lần nữa, Trung Quốc dường như đã không được lường trước hậu quả của việc xả nước bất ngờ với hạ nguồn.

Hậu quả của nó chắc chắn là giống với tác động của một loại vũ khí đối với các cộng đồng ở bắc Thái Lan và Lào, nơi sinh kế của người dân bị thiệt hại. Ruộng vườn của họ bị ngập, nông cụ và gia súc bị cuốn trôi.

Việc các con đập tích nước, xả nước có thể là thách thức cho các nỗ lực đối thoại giữa Trung Quốc và các nước Mekong. Làm sao các bên liên quan có thể thảo luận, kêu gọi sự minh bạch và hợp tác tích cực hơn từ Trung Quốc?

– Phương pháp của Công ty Eyes on Earth có thể được nhân rộng với chi phí thấp. Nếu các bên liên quan, cho dù là cấp chính phủ hay phi chính phủ áp dụng các phương pháp nghiên cứu này hoặc có nhu cầu tiếp cận với số liệu gần như theo thời gian thực từ Công ty Eyes on Earth hoặc các tổ chức nghiên cứu khác, những thông tin này có thể trở thành kiến thức phổ biến và được sử dụng rộng rãi để cải thiện các cuộc đối thoại liên quan đến Mekong.

MRC cần áp dụng phương pháp và phát hiện này, đồng thời công nhận giá trị của nó trong việc giám sát sông Mekong và sử dụng nó trong các thảo luận trong khuôn khổ Hợp tác Lan Thương – Mekong của cơ quan này với Trung Quốc.

Xin cảm ơn hai ông.

https://cuoituan.tuoitre.vn/tin/20200522/song-mekong-can-su-minh-bach-hop-tac-ve-nguon-nuoc/1557780.html

Ngày Trái đất, ngắm những ‘điểm đen’ ô nhiễm trở nên trong lành giữa đại dịch

TTO – Ngày Trái đất (22-4) năm nay được Liên Hiệp Quốc lựa chọn với chủ đề ‘Hành động vì khí hậu’ nhằm nâng cao nhận thức và đưa ra những biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.

Venice (Ý) trời xanh, nước xanh, giữa đại dịch COVID-19 – Ảnh: REUTERS

2020 cũng là kỷ niệm 50 ngày Trái đất. Theo The Guardian, sự kiện được tổ chức lần đầu vào năm 1970, thu hút khoảng 20 triệu người Mỹ hưởng ứng, xuống đường tuần hành vì môi trường và yêu cầu chính quyền mạnh tay đưa ra các biện pháp bảo vệ hành tinh.

Đến năm 2009, Liên Hiệp Quốc chính thức công nhận 22-4 là ngày Trái đất, cũng là dịp cả thế giới nhìn nhận về giá trị của môi trường, kêu gọi các hành động thiết thực bảo vệ môi trường.

Năm nay, ngày Trái đất đến giữa lúc thế giới đang chống lại đại dịch COVID-19.

Nhờ những biện pháp phong tỏa để ngăn đại dịch, môi trường những ngày qua ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực.

Khí quyển Trái đất sạch hơn khi người dân ít ra ngoài, phương tiện giao thông hạn chế, hoạt động sản xuất thải khí nhà kính giảm đi… Nhiều “điểm đen” ô nhiễm như Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan… có bầu không khí trong lành kinh ngạc.

Theo Reuters, dữ liệu vệ tinh của Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) cho thấy từ ngày 14 đến 25-3, ô nhiễm không khí do chất NO2 ở những thành phố lớn tại các nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý giảm khoảng 40%.

Trái đất cũng ít ồn ào hơn. Tạp chí Newsweek ghi nhận, những ngày qua bề mặt Trái đất yên tĩnh hơn, giảm đáng kể những rung động trên đất liền, chủ yếu do lượng xe cộ giảm, tạm dừng thi công nhiều công trình xây dựng giữa đại dịch…

Theo TS Stephen Hicks – ĐH Hoàng gia London (Anh) – đây là thời điểm hiếm có giữa nhịp sống hiện đại để nghiên cứu về địa chất Trái đất.

Giữa mùa dịch, động vật hoang dã ‘lộ diện thường xuyên hơn sau nhiều năm; hoa tulip, hoa anh đào nở đúng hẹn; những kỳ quan thiên nhiên đông đúc khách nay nhàn nhã, yên bình…

Ngày Trái đất năm nay dường như đúng nghĩa cho Trái đất.

Đường xá thênh thang, không khí trong lành, người dân ở miền bắc Ấn Độ thậm chí đã thấy được dãy Himalaya cách đó 200km lần đầu tiên sau 30 năm – Ảnh: INDIA TIMES

Hoa tulip nở đúng mùa (tháng 4 – tháng 5) ở Hà Lan. Tuy nhiên, ước tính mỗi ngày nước này phải bỏ đi 1 triệu cành hoa do nhu cầu sụt giảm trong đại dịch. Theo hợp tác xã Royal FloraHolland – cơ sở chuyên cung cấp hoa lớn nhất Hà Lan – ước tính năm nay khoảng 70% tổng sản lượng hoa tulip ở nước này sẽ không tiêu thụ được – Ảnh: REUTERS

Khung cảnh yên tĩnh ở La Paz, Bolivia – Ảnh: REUTERS

Mùa dịch động vật “tràn” ra ngoài nhiều hơn. Trong ảnh: Bầy khỉ tại đền Prang Sam Yod, Lopburi, Thái Lan – Ảnh: REUTERS

Ở châu Á, hoa anh đào vẫn nở đón xuân (tháng 3 – tháng 5). Chính quyền Tokyo (Nhật Bản) từng kêu gọi người dân nên hủy các kế hoạch ngắm hoa năm nay nhằm tránh lây nhiễm virus – Ảnh: REUTERS

Hoa anh đào nở, mùa xuân vẫn đến ở Riga, Latvia – Ảnh: REUTERS

Dòng sông trong vắt ở Venice (Ý) khi vắng khách du lịch. Người dân nơi đây cho biết đã rất lâu mới được ngắm nhìn màu nước xanh và đẹp đến thế khi không có khách du lịch, không động cơ mô tô nước, không rác thải… – Ảnh: REUTERS

Loài rùa biển đặc hữu ở bang Odisha của Ấn Độ “chiếm cứ” bờ biển Rushikulya đẻ trứng. Rùa ở đây từng trốn tránh do ô nhiễm và khách du lịch quấy phá, nhưng nay có thể vô tư nghỉ dưỡng mà không bị làm phiền – Ảnh: INDIA TIMES

Cánh rừng còn sót lại sau đợt cháy rừng lịch sử tại Úc. Đầu tháng 3, chính quyền bang New South Wales (Úc) thông báo đám cháy đã hoàn toàn được dập tắt, nhưng hỏa hoạn đã gây thiệt hại nặng nề cho thiên nhiên nước này – Ảnh: NEW YORK TIMES

Chú ong hút mật trên hoa hạnh nhân một ngày yên bình ở Tel Arad, Israel – Ảnh: REUTERS

Sư tử nằm nghênh ngang giữa đường tại Vườn Quốc gia Kruger (Nam Phi). Theo người phát ngôn Vườn quốc gia Isaac Phaala, sư tử thường ngủ trong các bụi rậm nhưng do lệnh đóng cửa vườn từ 25-3, đàn sư tử tranh thủ “tận hưởng” khoảnh khắc yên tĩnh hiếm thấy – Ảnh: REUTERS

HOÀNG THI

https://tuoitre.vn/ngay-trai-dat-ngam-nhung-diem-den-o-nhiem-tro-nen-trong-lanh-giua-dai-dich-20200422123131468.htm