ĐA DẠNG ĐỊA HỌC VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC

Bài viết trước cho thấy con người đã  nhận ra được tầm quan trọng của Đa dạng sinh học (ĐDSH) và ra sức bảo tồn ĐDSH từ lâu, trong khi chỉ mới gần đây chúng ta mới bắt đầu có sự nhận thức toàn cầu về Đa dạng địa học (ĐDĐH) và vẫn đang trên con đường tiến tới các hoạt động bảo tồn chúng. Một thực tế chính là nếu không có “cái nền phi sinh” – ĐDĐH thì sẽ không có ĐDSH – thế giới hữu sinh bên trên. Các nghiên cứu đã cho thấy có một sự tương đồng giữa ĐDĐH và ĐDSH. ĐDĐH và ĐDSH đều là hai yếu tố cấu trúc và động lực của «đa dạng tự nhiên», với các liên kết và các mối quan hệ phức tạp.

Sự tương đồng giữa ĐDĐH – ĐDSH

Đa dạng địa học được minh họa bởi 5.000 khoáng vật đã được phát hiện trên thế giới, trong đó có một số khoáng vật rất quý (Hình 1). Các khoáng vật được đặc trưng bởi cấu trúc tinh thể hoặc kích thước hạt, hình dạng, màu sắc và khi kết hợp với nhau sẽ tạo ra hàng ngàn kiểu đá được gọi tên khác nhau. Khoảng một triệu loài hóa thạch đã được xác định, hàng triệu loài chưa được phát hiện [1], [2]. Trên bề mặt trái đất, các quá trình vật lý vẫn tiếp tục diễn ra và đã tạo nên sự đa dạng về địa chất và địa mạo rất lớn (ví dụ: bờ biển, băng hà, sườn dốc, gió, dòng chảy, phong hóa, núi lửa, kiến tạo…).

Hình 1. Các khoáng vật trên thế giới

Khoa học ghi nhận học thuyết Tiến hóa của Charles Darwin lý giải cho sự phát triển của muôn loài nhưng ít ai biết rằng Darwin chính nhờ đọc sách “Các nguyên lý địa chất” (1830) của Charles Lyell mới có thể hình thành được học thuyết của mình. Căn cứ vào sự ảnh hưởng của đa dạng địa học đối với đa dạng sinh học và sự tiến hóa của nó, có thể nhận thấy đa dạng địa học là nền tảng cho sự sống phức tạp phát triển. Các nhà khoa học trái đất ở Tasmania đã đưa ra những nhận xét về sự tương đương ĐDĐH và ĐDSH trong thế giới phi sinh (Bảng 1).

Bảng 1. Sự tương đương giữa đa dạng địa học và đa dạng sinh học

Đa dạng địa học là nền tảng của Đa dạng sinh học

ĐDĐH đã tồn tại lâu đời bắt nguồn từ sự tiến hóa ban đầu của lớp vỏ lục địa cách đây khoảng 3 tỷ năm, trong khi sự gia tăng đột biến lớn về ĐDSH phù hợp với sự phát triển của cuộc sống phức tạp, đa bào chỉ dưới 1 tỷ năm về trước [4] (Hình 2). Cần lưu ý rằng cả hai đường cong này đều dựa trên dữ liệu địa chất. Đường cong ĐDSH (Benton & Harper, 2009) dựa trên hồ sơ hóa thạch và minh họa một thời kỳ dài của sự sống đơn bào từ khoảng 3,4 tỷ đến 550 triệu năm trước (mặc dù có bằng chứng cho thấy sự sống đa tế bào có thể lâu hơn một triệu năm) tiếp theo là sự bùng nổ của các dạng sống trong kỷ Cambri và sự gia tăng đa dạng sinh học tiếp theo được nhấn mạnh bởi nhiều dòng chảy do một loạt các sự kiện tuyệt chủng. Đường cong ĐDĐH (Gray, 2008,2013) sử dụng công trình của một số tác giả trong việc tái tạo lại sự phát triển của lớp vỏ lục địa làm đại diện cho ĐDĐH vì điều này sẽ chỉ phát triển mạnh mẽ khi các khối lục địa đáng kể ra đời cách đây khoảng 3 tỷ năm. Cũng cần lưu ý rằng khi sự bùng nổ sự sống ở kỷ Cambri xảy ra, phần lớn ĐDĐH của Trái đất đã có sẵn, do đó sự đa dạng của môi trường vật chất cho phép sự đa dạng hóa các loài xảy ra trong những môi trường sống khác nhau này.

Hình 2. Đường cong ĐDSH và ĐDĐH theo thời gian [5]

Dịch vụ Đa dạng địa học

Giá trị của ĐDSH được đánh giá bằng các “Dịch vụ hệ sinh thái:, và dựa vào cách tiếp cận này, Murray Gray (2012) [9] đã đề xuất cách đánh giá “Dịch vụ địa học” cho phép chúng ta có một cách nhìn nhận toàn diện hơn về giá trị mà thế giới phi sinh đã đem lại cho chúng ta.

Các giá trị tổng hợp của ĐDĐH là đáng kể và cùng nhau cung cấp cho xã hội một loạt các “dịch vụ hệ thống địa học” (geosystem services), tương đương thành phần phi sinh của “các dịch vụ hệ sinh thái”. Chúng hoàn toàn cần thiết để duy trì các xã hội hiện đại về cả mặt vật chất và tinh thần và xứng đáng được xã hội và đặc biệt là những người ra quyết định hiểu rõ hơn. Chúng ta cần một cách tiếp cận toàn diện hơn để đánh giá, bảo tồn và quản lý thiên nhiên bao gồm cả ĐDĐH và ĐDSH và điều này đặc biệt đúng vào thời điểm các mối đe dọa đối với thiên nhiên ngày càng gia tăng do các hành động của con người và biến đổi khí hậu.

Hình 3 minh họa một sơ đồ tóm tắt có “đa dạng địa học” là điểm khởi đầu của các hàng hóa và dịch vụ phi sinh, vì điểm cơ bản là tất cả những lợi ích có được này là do sự đa dạng của nền – yếu tố phi sinh – đã mang  đến cho chúng ta một loạt các vật liệu, quy trình và giá trị phục vụ cho tồn tại và phát triển, đó là: 1) Dịch vụ điều tiết, 2) Dịch vụ hỗ trợ, 3) Dịch vụ Văn hóa, 4) Dịch vụ và hàng hóa cung cấp, 5) Dịch vụ kiến thức.

Hình 3. Sơ đồ phác thảo các hàng hóa và dịch vụ phi sinh học từ sự đa dạng địa học của hành tinh.

Như vậy rõ ràng, nếu không có ĐDĐH thì cũng sẽ không thể có ĐDSH trong tự nhiên. Do đó, bảo tồn ĐDĐH sẽ là điều tất yếu trong bảo tồn thiên nhiên nói chung và bảo tồn địa học nói riêng. Ngày Quốc tế ĐDĐH sắp tới đây sẽ là một dịp để chúng ta, những nhà khoa học cũng như cộng đồng cùng nâng cao sự hiểu biết về ĐDĐH và gìn giữ chúng bởi những giá trị hệ thống địa học mà chúng ta đang thụ hưởng trong cuộc sống hàng ngày bắt nguồn từ chính sự đa dạng của thế giới phi sinh mà từ lâu nay chúng ta không hề hay biết.

Tài liệu tham khảo

1.         Murray Gray (2004), Geodiversity: valuing and conservating abiotic nature, John Wiley & Sons Ltd, The Atrium, Southern Gate, Chichester, West Sussex PO19 8SQ, England.

2.         Gray – 2005 – Geodiversity and Geoconservation What, Why, and H.pdf. .

3.         Ng S., Li J., Fang S. và cộng sự. (2010). Geodiversity and Geoconservation in Hong Kong. Asian Geographer, 27(1–2), 1–11.

4.         Chakraborty A. và Gray M. (2020). A call for mainstreaming geodiversity in nature conservation research and praxis. Journal for Nature Conservation, 56, 125862.

5.         Murray Gray (2015). Geodiversity: a key basis for geoconservation, geoparks and geotourism. <http://www.geog.or.jp/files/club290_01.pdf&gt;.

6.         International Day for Biological Diversity, 22 May. <https://www.un.org/en/events/biodiversityday/convention.shtml&gt;, accessed: 23/05/2019.

7.         Unit B. (2016). Text of the Convention. <https://www.cbd.int/convention/text/&gt;, accessed: 23/05/2019.

8.         Murray Gray (2018). Geodiversity: The backbone of geoheritage and geoconservation. Geoheritage. Elsevier, 13–25.

9.         Gray M. (2012). Valuing Geodiversity in an “Ecosystem Services” Context. Scottish Geographical Journal, 128(3–4), 177–194.

KHÁI NIỆM & LỊCH SỬ HÌNH THÀNH KHÁI NIỆM ĐA DẠNG ĐỊA HỌC

Trong khuôn khổ chào mừng ngày Quốc tế Đa dạng địa học đầu tiên 06/10/2022, Cổng thông tin Địa môi trường xin được giới thiệu chuỗi các bài viết với hy vọng sẽ chuyển tải đến các nhà khoa học, quý thầy cô và các bạn sinh viên cùng các độc giả những nội dung cơ bản nhất về Đa dạng địa học và các vấn đề liên quan.

Bảo tồn tự nhiên là một trong những vấn đề đã được quan tâm từ rất sớm, khi con người nhận thức được giá trị mà chúng mang lại. Khái niệm bảo tồn thiên nhiên đã hình thành từ khá lâu, vào khoảng năm 680 sau CN với hình thức Khu bảo tồn Động vật hoang dã tại Anh [1]. Bảo tồn sinh học – bảo tồn thế giới sự sống đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học nhất là từ thế kỷ 18 tại các quốc gia châu Âu, đặc biệt là Anh Quốc. Khái niệm về sự đa dạng sinh học lần đầu tiên (biological diversity) đã được đề cập trong tác phẩm The Variable Desert từ năm 1916 [2]. Cho đến năm 1972, bảo tồn tự nhiên cũng được nhắc đến trong Công ước di sản Thế giới về bảo vệ thiên nhiên và văn hóa thế giới của UNESCO. Đến năm 1988, thuật ngữ Đa dạng sinh học (ĐDSH) – “biodiversity” chính thức được Edward Osborne Wilson (cha đẻ của ĐDSH [4]) đề xuất và sử dụng trong các công bố khoa học [5]. Và đến 1992, Công ước về Đa dạng sinh học ra đời và ngày Quốc tế Đa dạng sinh học cũng được tổ chức đầu tiên vào năm 1993.

Bảo tồn sinh học và sự hình thành khái niệm đa dạng sinh học

Còn về mảng địa học, mặc dù ý thức về bảo tồn địa học cũng được hình thành từ lâu, ví dụ như bảo tồn Hang động tại Đức (1668), hay hình thành Công viên Quốc gia Yellowstone tại Mỹ để bảo tồn thiên nhiên (chủ yếu là bảo vệ giá trị địa di sản) (1872) hay các hoạt động bảo tồn tại Tasmania (Úc) trong những năm 1990s [2], nhưng khái niệm về Đa dạng địa học (ĐDĐH) và tầm quan trọng của nó đối với Trái đất vẫn chưa được thực sự quan tâm chú ý. Phần lớn trọng tâm bảo tồn thiên nhiên trong giai đoạn đó là về sinh vật –  đa dạng sinh học chứ chưa nhà khoa học nào nói đến sự quan trọng của yếu tố nền – địa học. Sự phát triển của ĐDSH đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học địa chất với câu hỏi đặt ra rằng họ cũng nên nghiên cứu sự đa dạng địa học trên trái đất này. Mãi đến cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, các Chương trình, tổ chức với mục tiêu bảo tồn địa học mới lần lượt ra đời như GEOSITES của IUGS (1996) và Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu của UNESCO (2004). Và một cột mốc quan trọng là ngày Quốc tế Đa dạng địa học đã được thông qua vào năm 2021 và sẽ tổ chức lần đầu tiên vào 06/10/2022.

Bảo tồn địa học và sự hình thành khái niệm đa dạng địa học

Tương tự về quá trình bảo tồn địa học, các định nghĩa về ĐDĐH cũng xuất hiện khá lâu sau khi có khái niệm ĐDSH. Một số định nghĩa ĐDĐH được ghi nhận dưới đây.

  1. Các định nghĩa của Úc (1980s – 1990s)

Vào những năm 1980, một số khái niệm đầu tiên về các đối tượng phi sinh đã được tác giả Kevin Kiernan (Đại học Tasmania) sử dụng. Trong các nghiên cứu của mình, ông đưa các thuật ngữ như “đa dạng địa hình” (landform diversity), “đa dạng địa mạo” (geomorphic diversity), và đã vẽ sự tương đồng giữa khái niệm ĐDSH đối với các loài theo địa hình (landform species) và cộng đồng theo địa hình (landform communities) [3]. 

Và không lâu sau đó, trong nghiên cứu năm 1993, Sharples đã đưa ra thuật ngữ “Đa dạng địa học” (geodiversity) và thuật ngữ này được chính thức công nhận vào tại Malvern International Conference cũng trong năm 1993 [4] [5].

Định nghĩa phổ biến nhất về Đa dạng địa học (ĐDĐH) được đưa ra bởi Hiến chương Di sản Thiên nhiên Úc (AHC 2002): ĐDĐH có nghĩa là phạm vi tự nhiên (đa dạng) của địa chất (đá gốc), địa mạo (địa hình) và các đặc điểm, tổ hợp, hệ thống và quá trình của đất. Đa dạng địa học bao gồm bằng chứng về cuộc sống trong quá khứ, các hệ sinh thái và môi trường trong lịch sử trái đất cũng như một loạt các quá trình khí quyển, thủy văn và sinh học hiện đang tác động lên đá, địa hình và đất. [6]

2. Murray Gray (2004)

Khái niệm ĐDĐH được giới thiệu vào đầu những năm 1990 và được phát triển đầy đủ như một dạng mô hình một thập kỷ sau bởi Murray Gray trong tác phẩm Geodiversity được xuất bản lần đầu tiên năm 2004, tái bản lần hai 2013 và ĐDĐH cũng được ông định nghĩa qua các công bố năm 2005, 2012, 2013 [7], [8], [9], [10].

Murray Gray (2004 và 2013) định nghĩa rằng:

“Đa dạng địa học là sự đa dạng phạm vi tự nhiên của thành phần địa chất (đá, khoáng sản, hóa thạch), địa mạo (địa mạo, địa hình, các quá trình vật lý), đất và đặc điểm thủy văn. Chúng bao gồm các tập hợp, cấu trúc, hệ thống và những đóng góp của chúng đối với cảnh quan”. [11]

3. UNESCO (2021)

Đến năm 2021, đa dạng địa học được định nghĩa một cách hoàn chỉnh và thống nhất trong đề xuất của UNESCO trong dự thảo đề xuất ngày Quốc tế Đa dạng địa học đầu tiên của Thế giới [12]: “Đa dạng địa học được định nghĩa là sự đa dạng của các yếu tố phi sinh vật của tự nhiên – bao gồm khoáng vật, đá, hóa thạch, đất, trầm tích, địa mạo, địa hình, các quá trình địa chất và hình thái, và các đặc điểm thủy văn như sông, hồ. Đa dạng địa học làm nền tảng cho đa dạng sinh học và là cơ sở của mọi hệ sinh thái, nhưng có những giá trị riêng độc lập với đa dạng sinh học ”. [13]

#GeodiversityDay, #đadạngđịahọc

Tài liệu tham khảo

1.         Van Dyke F. (2008), Conservation biology : foundations, concepts, applications, [United States] : Springer.

2.         Brilha J. (2014). Geoconservation, History of. Encyclopedia of Mineral and Energy Policy. Springer Berlin Heidelberg, Berlin, Heidelberg, 1–3.

3.         Murray Gray (2015). Geodiversity: a key basis for geoconservation, geoparks and geotourism. <http://www.geog.or.jp/files/club290_01.pdf&gt;.

4.         Sharples C. (1993), A Methodology for the identification of significant landforms and geological sites for geoconservation purposes, Report, Forestry Commission Tasmania, Hobart, Tasmania.

5.         O’Halloran D., Geological Society of London, và Malvern International Conference on Geological and Landscape Conservation (1994), Geological and landscape conservation: proceedings of the Malvern International Conference 1993, Geological Society, London.

6.         Goudie A., btv. (2004), Encyclopedia of geomorphology, Routledge : International Association of Geomorphologists, London ; New York.

7.         Murray Gray (2004), Geodiversity: valuing and conservating abiotic nature, John Wiley & Sons Ltd, The Atrium, Southern Gate, Chichester, West Sussex PO19 8SQ, England.

8.         Gray M. (2005). Geodiversity and Geoconservation: What, Why, and How?. The George Wright Forum, 22(3), 9.

9.         Gray M. (2012). Valuing Geodiversity in an “Ecosystem Services” Context. Scottish Geographical Journal, 128(3–4), 177–194.

10.       Gray M., Gordon J.E., và Brown E.J. (2013). Geodiversity and the ecosystem approach: the contribution of geoscience in delivering integrated environmental management. Proceedings of the Geologists’ Association, 124(4), 659–673.

11.       Murray Gray (2013), Geodiversity: Valuing and Conserving Abiotic Nature, John Wiley & Sons.

12.       (2021). International Geodiversity Day – increasing global awareness of geological heritage. Eurogeologists, <https://eurogeologists.eu/international-geodiversity-day-increasing-global-awareness-of-geological-heritage/&gt;, accessed: 12/05/2021.

13.       UNESCO, Executive Board, 211th (2021). International Geodiversity Day. <https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000375688&gt;.

DỰ ÁN HỆ THỐNG THỦY LỢI CÁI LỚN – CÁI BÉ GIAI ĐOẠN 1, VẤN ĐỀ VÀ BÀI HỌC

GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân

Về tác giả: Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Ngọc Trân, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học kỹ thuật nhà nước, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội các khóa IX, X, XI.

Gắn bó trong suốt 35 năm với đồng bằng sông Cửu Long, ông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của đồng bằng, cho việc ứng phó với các thách thức mà đồng bằng phải đối diện, toàn cầu (biến đổi khí hậu, toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập quốc tế), khu vực (khai thác nguồn nước sông Mekong từ thượng nguồn, trong đó có việc xây dựng các đập thủy diện trên dòng chính sông Mekong) và khai thác tài nguyên tại địa bàn. Ông đã có nhiều báo cáo khoa học được chú ý tại các hội nghị trong nước và quốc tế.

Tóm tắt. Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé giai đoạn 1 đã được long trọng khánh thành ngày 05/03/2022 cách đây 6 tuần. Công trình đã hoàn thành nhưng Dự án thì chưa. Có những vấn đề cần được làm rõ liên quan đến Dự án trong thời gian sắp tới và bài học cho quản lý nhà nước.
Thông tin cơ bản về Dự án
Trích từ Quyết định số 5078/QĐ-BNN-XD của Bộ NNvPTNT ngày 25/12/2018:
Mục tiêu của Dự án:
“- Kiểm soát mặn, giải quyết mâu thuẫn giữa vùng nuôi trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp của các tỉnh: Kiên Giang, Hậu Giang và tỉnh Bạc Liêu thuộc lưu vực sông Cái Lớn – Cái Bé. Đồng thời, góp phần phát triển thủy sản ổn định ở vùng ven biển của tỉnh Kiên Giang;

  • Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển để giải quyết tình trạng thiếu nước ngọt vào mùa khô, phòng chống cháy rừng, đặc biệt trong những năm hạn hán, góp phần phát triển kinh tế xã hội ổn định;
  • Tăng cường khả năng thoát lũ, tiêu úng, tiêu chua cải tạo đất phèn;
  • Kết hợp phát triển giao thông thủy, bộ trong vùng dự án.”
    Nhiệm vụ của Dự án:
    “- Kiểm soát nguồn nước (mặn, lọ, ngọt), tạo điều kiện sản xuất ổn định, bền vững đối với các mô hình sản xuất theo hệ sinh thái (ngọt, mặn – lợ, ngọt – lợ luân phiên) cho vùng hưởng lợi với diện tích tự nhiên 384.120 ha, trong đó đất sản xuât nông nghiệp, thủy sản là 346.241ha;
  • Kết hợp tuyến đê biển Tây tạo thành cụm công trình chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng, chống thiên tai, giảm ngập úng khi mặt đất hạ thấp (do lún sụt đất); Giảm thiệt hại do thiên tai (hạn, mặn) vào mùa khô cho các mô hình sản xuât trong vùng;
  • Góp phần cấp nước ngọt trong mùa mưa cho vùng sản xuất mặn, ngọt huyện An Minh, An Biên với những năm mưa ít; và tiêu thoát cho vùng hưởng lợi của dự án trong điều kiện biến đối khí hậu, nước biển dâng;
  • Kết hợp phát triển cơ sở hạ tầng giao thông bộ, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trong khu vực.”

Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé giai đoạn 1 có ba hợp phần:
(1) Hợp phần xây dựng công trình gồm có xây dựng cống Cái Lớn, cống Cái Bé; xây dựng đê nối cống Cái Lớn, cống Cái Bé với QL 61. Chủ đầu tư của hợp phần là Ban Quản lý Đầu tư và Xây dựng 10.
(2) Hợp phần Mô hình sinh kế và các hoạt động phi công trình trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, Mục tiêu của hợp phần là hỗ trợ phát triển việc áp dụng các mô hình sinh kế bền vững theo hướng sản xuất an toàn sinh học phù hợp điều kiện thực tế cho người dân ở các huyện An Biên, Châu Thành, Giồng Riềng, U Minh Thượng, thích ứng với biến đổi khí hậu và nguồn nước được kiểm soát khi xây dựng cống Cái Lớn, Cái Bé. Chủ đầu tư của hợp phần là Sở NNvPTNT tỉnh Kiên Giang.
(3) Hợp phần Mô hình sinh kế và các hoạt động phi công trình trên địa bàn tỉnh Hậu Giang.
Mục tiêu của hợp phần là (1) Xây dựng mô hình Lúa – Thủy sản (lúa hữu cơ và tôm sú; lúa hữu cơ và tôm càng xanh) – Mãng cầu – Màu tại xã Lương Nghĩa huyện Long Mỹ; (2) Xây dựng mô hình Khóm – Thủy sản (khóm và cá thác lác; khóm và cá nước ngọt, cá nước lợ) tại xã Hòa Tiến thành phố Vị Thanh. Các mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu và nguồn nước được kiểm soát khi xây dựng cống Cái Lớn, Cái Bé.
Chủ đầu tư của hợp phần là Sở NNvPTNT tỉnh Hậu Giang. Tổng mức đầu tư của Dự án là 3309,5 tỷ VNĐ. Thời gian thực hiện Dự án: hoàn thành trước 31/12/2021.

Ý kiến đối với Dự án
Đã có nhiều ý kiến trái chiều về Dự án. Tác giả đã phát biểu ý kiến của mình đối với Dự án ngay từ khi Quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án được ban hành (số 489/QĐ-TTg ngày 14/7/2017) và đã được đúc kết lại trong bài tham luận tại cuộc họp tham khảo ý kiến chuyên gia tại Rạch Giá ngày 07/09/2018 “Cơ sở khoa học và lý do không thể phê duyệt Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn, Cái Bé”1 và trong bài “Phê duyệt một ĐTM và trách nhiệm giải trình” 2.
Sau khi Bộ NNvPTNT phê duyệt Dự án, tác giả dừng không phát biểu ý kiến. Dừng vì không biết đối với Bộ NNvPTNT dự án là dự án gì? Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé giai đoạn 1 hay chỉ là Dự án đầu tư xây dựng công trình Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé giai đoạn 1 như trong tên của QĐ 5078?
Nhưng dừng còn vì sự không rõ này dường như thể hiện một quan điểm “cứ thực hiện cho xong phần công trình, mọi chuyện khác tính sau một khi dự án đã vào ngàm”, cho dù tính khả thi của dự án tùy thuộc vào “các chuyện khác đó”, một quan điểm mà theo tác giả là trái với nguyên tắc quản lý tốt nhà nước!
Tốt nhất là chờ xem thực tế sẽ diễn ra như thế nào.

Cho đến nay ý kiến của tác giả đối với Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé giai đoạn 1 không thay đổi mà có phần thêm khẳng định qua những khảo sát gần đây về biến động mực nước tại hai trạm thủy văn Xẻo Rô và Rạch Giá 3. (Hình 1, trái)

Khi nào Dự án hoàn thành? Hậu quả đối với ngân sách nhà nước.
Theo QĐ 5078 thì Dự án phải hoàn thành trước ngày 31/12/2021. Ngày 05/03/2022 đã diễn ra một sự kiện long trọng mà phông nền trên khán đài mang dòng chữ “LỄ KHÁNH THÀNH HỆ THỐNG THỦY LỢI CÁI LỚN – CÁI BÉ GIAI ĐOẠN 1”.
Chúng ta vừa khánh thành gì? Bỏ mất hai từ Dự án, không nói rõ công trình. Chỉ mới hoàn thành phần công trình, nhưng khánh thành là Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé giai đoạn 1. Hàm ý gì?
Cử tri rất muốn biết tổng mức đầu tư cho Dự án đã chi hết bao nhiêu? và điều quan trọng hơn là khi nào Dự án hoàn thành? Bởi lẽ ngân sách nhà nước không thể theo lao đã phóng, tiếp tục chi nhiều nghìn tỷ đồng và không biết trong bao nhiêu năm để đạt được Mục tiêu và Nhiệm vụ của Dự án, giả thiết là khả thi!
Khúc dạo đầu?
Giữa lúc những câu hỏi trên còn chờ được làm rõ, thì chỉ một tuần sau lễ khánh thành, đã xuất hiện trên mạng một bài báo 4 trong đó có ba đoạn rất đáng quan tậm vì có liên quan mật thiết tới Dự án trong thời gian tới. Xin trích dẫn 5:
Đoạn (A) “Theo quy trình vận hành tạm thời hệ thống công trình thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé của Bộ NN-PTNT ban hành, công trình này được vận hành thử nghiệm trong 2 năm, sau đó sẽ xem xét sửa đổi, bổ sung và phê duyệt quy trình vận hành chính thức.”
(…)
Đoạn (B) “Tuy nhiên, GS Hòa cũng lưu ý, sẽ có những tác động nhất định bởi công trình này mang tính tổng thể để kiểm soát nguồn nước chung, còn để phát huy dự án này cần phải có những công trình bên trong vùng dự án để phục vụ cho từng vùng sản xuất.
(…)
Đoạn (C) “Dựa trên giải pháp tổng thể từ dự án địa phương cần phải chuyển đổi sản xuất cho phù hợp với hệ thống này. Quá trình vận hành cũng sẽ ít nhiều phát sinh những mâu thuẫn khi khu vực này cần nước ngọt, nơi kia lại cần nước mặn… Để giải quyết những vấn đề này, giai đoạn sắp tới phải có một quy trình vận hành thực sự linh hoạt”, ông Hòa nói thêm.
Người phát biểu trong các trích dẫn là Chủ nhiệm lập Dự án Hề thống Thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé giai đoạn 1, trong QĐ 5078. Có ba vấn đề cần được xem xét trong ba đoạn trích dẫn trên.

(1) Liên quan đến Đoạn (A).

  • Cần biết “quy trình vận hành tạm thời”, “thời gian vận hành thử nghiệm” “quy trình vận hành chính thức” được ban hành trong văn bản nào, vào thời điểm nào của Bộ. bởi lẽ quy trình vận hành là một nội dung được yêu cầu sửa đổi nhiều trong buổi họp nghiệm thu Báo cáo ĐTM của dự án. (Xem bài ở phụ chú 2). Tác giả đang chờ phản hồi từ Bộ NNvPTNT.
  • Tại sao hai năm mà không ngắn hơn hoặc dài hơn? Với chuyên môn của Viện mà Chủ nhiệm lập Dự án là Viện trưởng, việc vận hành thử nghiệm chắc chắn đã được mô phỏng số trong hai năm qua song song với xây dựng hai cống. Tại sao phải thử nghiệm thêm trong hai năm? Vì thận trọng khoa học, hay vì sau hai năm mô phỏng số vẫn chưa tìm được một quy trình vận hành các cống cho phép thực hiện Mục tiêu và Nhiệm vụ của Dự án, đặc biệt trong việc kết nối vận hành hai cống Cái Lớn, Cái Bé với vận hành hàng trăm cống đã được xây dựng trong các năm 1990, 2000 trong vùng đồng lũ nửa kín Tây sông Hậu, nằm ở đầu vào của hai sông Cái Lớn và Cái Bé? (Hình 1, phải)
Hình 1
  • Nếu xảy ra tình huống này thì tính khả thi của Dự án cần được xem xét lại. Tình huống còn chỉ ra rằng việc mô phỏng số đáng lý phải làm sớm hơn, trong giai đoạn lập hồ sơ Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi để làm rõ tính khả thi của Dự án, trước khi trình xin phê duyệt chủ trương đầu tư.
  • Tác giả cho rằng, ngay ở thời điểm này, đã có thể rút ra một bài học: Cả quy trình từ lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, phê duyệt chủ trương đầu tư, lập báo cáo nghiên cứu khả thi, lập báo cáo ĐTM, xét duyệt và nghiệm thu ĐTM, đến phê duyệt dự án cần được rà soát lại chặt chẽ hơn, tăng cường tính minh bạch, tính chịu trách nhiệm, để bảo đảm ngân sách nhà nước được chi tiêu có hiệu quả. (Xem thêm 6).

(2) Liên quan đến Đoạn B.

  • Năm 2018, để thuyết minh sự cần thiết xây dựng hệ thồng thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé, Báo cáo tóm tắt của Dự án dài 48 trang đã 11 lần đưa ra lập luận vì đầu tư chưa/không đồng bộ, và 7 lần viện dẫn cần đầu tư hoàn chỉnh. (Xem bài ở phụ chú1).

Lập luận trong Đoạn B giống như hai giọt nước với lập luận đã từng được đưa ra: “đầu tư phải đồng bộ, phải hoàn chỉnh”. Nghĩa là cần đầu tư tiếp cho Dự án, ở giai đoạn kế tiếp, hoặc kéo dài giai đoạn 1, nếu muốn dạt được Mục tiêu và Nhiệm vụ đề ra cho Dự án!
Đây là một khúc dạo đầu không thể rõ ràng hơn, dẫn vào một điệp khúc đã từng nghe nhưng không thú vị chút nào vì hao tài tốn của, và không thấy điểm cuối.

(3) Liên quan đến Đoạn C.
Đọc lại Mục tiêu và Nhiệm vụ của Dự án rồi đối chiếu, phân tích Đoạn C này, tác giả rất băn khoăn.
“Giai đoạn sắp tới” là giai đoạn nào, nằm ở đâu trong Dự án giai đoạn 1 (trên nguyên tắc đã hoàn thành)? “Phải có một quy trình vận hành thực sự linh hoạt”. “Thực sự linh hoạt” là như thế nào? Ai có trách nhiệm xây dựng quy trình vận hành thực sự linh hoạt này, và nhất là khi nào xong, giã thiết rằng nó tồn tại và khả thi? Từ Đoạn C chúng ta được dẫn về Đoạn A. Vòng tròn A-B-C được khép kín. Nhưng thời gian hoàn thành và tổng vốn đầu tư cho Dự án thì mở ngõ.
Thay lời kết

  • Có rất nhiều điều mà theo tác giả, các cơ quan chức năng, lập pháp và hành pháp, có thể rút ra từ Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé giai đoạn 1.
  • Tại sao có tình trạng bên này bờ bao nuôi tôm, bên kia bờ bao trồng lúa? Tại sao ở Đầm Dơi, Cái Nước (Cà Mau) người dân đã phá cống ngăn mặn do chính tay họ xây nên trước đó? Tại sao trũng treo U Minh Thượng, U Minh Hạ trước đây ngậm nước ngọt quanh năm, cung cấp nước ngọt ra các địa bàn xung quanh vào mùa khô, nay lại phải bơm nước ngọt để chống cháy cho chính chúng vào mùa khô? Tại sao rừng ngập mặn, chất độc màu da cam không hũy diệt được, tái sinh sau 1975. lại bị chặt trắng trên diện rộng sau đó? v.v. …
    Những vấn đề kinh tế – xã hội – môi trường trên đây cần nhưng chưa được nghiên cứu thấu đáo. Hãy khoan đổ lỗi cho người dân mà hãy xem lại mô hình phát triển và quản lý nhà nước đã làm gì 7.
    Người dân đồng bằng đang chờ một quy hoạch thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long, mới theo tinh thần của Nghị quyết 120, để họ có được sinh kế bền vững, trong đó có quy hoạch thủy lợi cho vùng mặn của đồng bằng mà Bộ trưởng Bộ NNvPTNT đã hứa trước Quốc Hội cách đây 21 năm 8.
    Từ khóa: Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé giai đoạn 1, quy trình vận hành
    các cống, Kiên Giang, Hậu Giang, khánh thành, Quyết định 498/QD-TTg phê duyệt
    chủ trương đầu tư, Quyết định 5078/QD-BNN-XD phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng
    công trình.

Tài liệu tham khảo:

1 Nguyễn Ngọc Trân, 2018, http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/du-an-cai-lon-cai-be-ly-do-khong-the-pheduyet-3362429 hay Cơ sở khoa học và lý do không thể phê duyệt Dự án hệ thống thủy lợi Cái Lớn, Cái Bé
(vnulib.edu.vn)
2 Nguyễn Ngọc Trân, 2019, http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/phe-duyet-mot-dtm-va-trach-nhiem-giai-trinh3372499/ hay Phê duyệt một ĐTM và trách nhiệm giải trình (vnulib.edu.vn)

3 Nguyễn Ngọc Trân, 2022, http://daidoanket.vn/bien-dong-muc-nuoc-tai-xeo-ro-va-rach-gianhung-van-de-cotloi-va-tien-lieu-5680810.html?zarsrc=30&utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo
4 ‘Siêu’ cống thủy lợi lớn nhất Việt Nam và những điều không ngờ đến (thanhnien.vn), ngày 12/03/2022, bài của
phóng viên Đình Tuyển.
5 Tác giả đã liên hệ với người phát biểu đề chắc chắn rằng nội dung không trái với ý đã được phát biểu.

6 Nguyễn Ngọc Trân, 2018, Luật Đầu tư công, những sửa đổi bức thiết
http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/luat-dau-tu-cong-nhung-sua-doi-buc-thiet-3369530/

7 Nguyễn Ngọc Trân, 2019, “Đồng bằng sông Cửu Long, 44 năm chuyển đổi kinh tế, xã hội và môi trường”, http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/dbscl-44-nam-chuyen-doi-kinh-te-xa-hoi-va-moi-truong -3381677/ hay Vietnamese Mekong Delta, 44 years of economic, social and environmental transformation. Implementation of the Resolution No 120NQ-CP -5.pdf (vnulib.edu.vn)
8 Nguyễn Ngọc Trân, 2020, Thủy lợi và Nghị quyết 120/NQ-CP (vnulib.edu.vn)

  Tài liệu tập huấn Thực tập Môi trường đại cương năm 2022

Sáng nay, 15/05/2022, các thầy cô BM Khoa học môi trường đã tiến hành tập huấn cho SV trước chuyến Thực tập Môi trường đại cương. Chuyến thực tập được thực hiện trên cơ sở sinh viên năm 2 ngành KHMT đã được học các môn học sau: 

  • Khoa học Trái đất
  • Sinh thái môi trường
  • Cơ sở môi trường đất
  • Cơ sở môi trường nước
  • Địa chất môi trường
  • Hóa học môi trường
  • Bản đồ học và GIS

Thông qua môn học, thầy cô sẽ hướng dẫn sinh viên thực hành các phương pháp cơ bản trong nghiên cứu thực địa, thu thập, xử lý thông tin, tổ chức thực hiện nghiên cứu một vấn đề cụ thể và trình bày kết quả nghiên cứu. Và qua hoạt động thực hành khảo sát tại từng vị trí, sinh viên có điều kiện củng cố kiến thức đã học phần lý thuyết. Chuyến thực tập sẽ giúp sinh viên hiểu thêm về thiên nhiên, đất nước, con người; bước đầu nhận biết và đánh giá được mối quan hệ tương hỗ, nhân quả phức tạp giữa các vấn đề tài nguyên môi trường trong từng vùng..

Dưới đây là các tài liệu của chuyến thực tập.

1/Phần giảng chung về giới thiệu lộ trình chuyến đi và các nhiệm vụ học tập – Thầy Lê Tự Thành

2/ Phần nội quy và kỷ luật chuyến đi – Thầy Lê Tự Thành

3/ Phần giảng về Địa chất – địa mạo – Cô Hoàng Thị Phương Chi

4/ Phần giảng về Sinh thái – Cô Dương Thị Bích Huệ

Cảm ơn người gieo hạt Địa môi trường

Trong không khí ấm áp, trang trọng vào một ngày rất đẹp, 18/01/2022 – ngày mà Khoa Môi Trường tròn 22 tuổi, buổi Lễ Tri ân PGS. TS. Hà Quang Hải đã được diễn ra. Vậy là cánh chim đầu đàn của nhóm nghiên cứu Địa môi trường – Khoa Môi trường, Trường ĐHKHTN đã đi đến một cột mốc quan trọng nữa trong cuộc đời – một “trạm dừng chân” mới.

Thầy chia sẻ về chặng đường làm việc đã qua… với nửa chặng đường tham gia điều tra địa chất – khoáng sản, nửa chặng đường làm việc trong ngành giáo dục
Trân trọng chúc mừng Thầy nhận Kỷ niệm chương 20 năm vì sự nghiệp Giáo dục.
Thầy chụp hình với BM Khoa học Môi trường
Thầy chụp hình cùng BM Quản lý và Tin học Môi trường
Thầy chụp hình cùng BM Công nghệ Môi trường
Một dấu ấn thật đẹp dành tặng Thầy ❤

Trong suốt hành trình gần 20 năm của mình, Thầy Hà Quang Hải đã xây dựng và phát triển hướng nghiên cứu địa môi trường tại Khoa, và cũng chính ngần ấy thời gian, bao lứa học trò đã được đào tạo để rồi đem lòng yêu thích và gắn bó với nghề. Mà làm sao không yêu thích cho được khi mà ở trong đó có bao nhiêu là nhánh nghiên cứu với muôn hình vạn trạng, nào là tai biến địa chất; tài nguyên địa học; địa di sản, bảo tồn địa học; địa du lịch; qui hoạch đất đai rồi cả quản lý tổng hợp đới bờ nữa.

Nếu người ta dùng câu ca dao “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài – Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” để nói về biểu tượng của người Hà Nội xưa thì chính những chuyến thực địa là chữ ký riêng để nhận dạng sinh viên Khoa Môi trường, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, mà Thầy Hải chính là người đã làm nên dấu ấn đó. Thầy đã xây dựng và hoàn thiện các tuyến thực địa, giúp sinh viên vừa rèn luyện kỹ năng học tập ngoài trời, ứng dụng các kiến thức từ sách vở và vừa tạo những kỉ niệm khó quên của một thời áo hoa trên ghế giảng đường.

Một hành trình khép lại, một giai đoạn mới mở ra, Thầy lại có thể tiếp tục rong ruổi trên con đường nghiên cứu tự do tự tại. Kính chúc Thầy và Cô luôn mạnh khoẻ để có thể thực hiện được những công việc mình yêu thích.

​Phương Chi – Quang Trà.

Hình ảnh: Thầy Trường Ngân

Cận cảnh núi lửa ở Tonga mạnh bằng cả ngàn quả bom nguyên tử

Vào tối 15-1, người dân đảo quốc Tonga ở nam Thái Bình Dương đã chứng kiến vụ núi lửa phun trào khủng khiếp chỉ vài mét trên mực nước biển ở giữa các đảo nhỏ Hunga Tonga và Hunga Ha’apai, cách thủ đô Nuku’alofa trên đảo chính Tongatapu khoảng 50km về phía bắc.

Cả thế giới đã theo dõi vụ phun trào này theo thời gian thực từ thế hệ vệ tinh thời tiết độ phân giải cao mới và đã kinh hoàng khi chứng kiến quy mô của nó.

Vụ phun trào của núi lửa Hunga Tonga-Hunga Ha’apai dưới nước đã bắn cột tro bụi và hơi nước cao đến 20km lên bầu trời.

Theo báo The Sydney Morning Herald, lúc đó vụ phun trào của núi lửa đã giải phóng năng lượng tương đương 1.000 quả bom nguyên tử ném xuống thành phố Hiroshima của Nhật Bản trong Thế chiến 2 vào năm 1945.

Núi lửa Hunga Tonga-Hunga Ha’apai trong ảnh chụp vệ tinh ngày 7-1 (trên, trái) và 15-1 (trên, phải) và vị trí của Tonga (ảnh dưới) – Đồ họa: AL JAZEERA

Tại đảo quốc Fiji, cách Tonga khoảng 800km, vụ phun trào dữ dội đến mức có thể nghe thấy âm thanh từ nó. Thậm chí tại Auckland (New Zealand), cách Tonga khoảng 2.000km, người dân cũng nghe được tiếng nổ.

Với phần lớn ngọn núi lửa nằm dưới nước, vụ phun trào này đã tạo ra một trận sóng thần đáng kể tàn phá Tonga. Sóng thần cũng đi xuyên Thái Bình Dương từ Úc đến bờ tây nước Mỹ.

Giáo sư Shane Cronin, nhà nghiên cứu về núi lửa tại Đại học Auckland, cho biết cảnh tượng trên mặt đất trông như ngày tận thế sau vụ phun trào: những đám mây tro bụi che khuất mặt trời và sấm sét gần núi lửa.

“Mọi người có thể thấy những đám mây ở phía xa, có tiếng động lớn vang lên và sau đó là những đợt sóng ập tới từ trận sóng thần đầu tiên. Tiếp theo, những đám mây tro bụi xuất hiện khắp Tongatapu. Đám mây tro bụi, với nhiều hạt tro mịn, dày đặc đến mức che hoàn toàn ánh nắng mặt trời, khiến bầu trời tối sầm lại” – ông Cronin mô tả.

Ông Cronin đánh giá có thể đây là vụ phun trào lớn nhất kể từ vụ phun trào của núi lửa Pinatubo ở Philippines vào năm 1991.

Theo Tuổi trẻ online.

THÔNG TIN VỀ HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ CÔNG VIÊN ĐỊA CHẤT TOÀN CẦU CỦA UNESCO LẦN THỨ 9

Hội nghị sẽ diễn ra trực tuyến từ ngày 12 – 16/12/2021 tại Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Jeju Island, Hàn Quốc.

Triển lãm thực tế ảo về Hội nghị Quốc tế trực tuyến lần thứ 9 về Công viên Địa chất Toàn cầu của UNESCO đã bắt đầu. Xin vui lòng truy cập vào đường dẫn để tham quan khu trưng bày của Hội nghị
    https://vr.miceview.kr/ZR064

CHương trình Hội nghị bao gồm các phần chính như sau:

1.Từ 12 – 13,14,15 /12/2021, các cuộc họp của Hội đồng UGG, GGN AC, GGN GA, và cuộc họp Mạng lưới Khu vực APGN CC

2. Ngày 14/12/2021: Lễ Khai mạc 13:00 – 14:45 (GMT+7)

Opening Ceremoney Dec. 14, 06:00-07:45 GMT
https://us02web.zoom.us/j/84336930298
ID: 843 3693 0298

3. Các tiểu ban với các báo cáo sẽ diễn ra liên tục từ 14-16/12/2021

Main Session 1: Các CVĐC chia sẻ thành công và các thử thách (Mature Geoparks–sharing Successes and Challenges)

Main Session 2: Các CVĐC tương lai (Aspiring Geoparks)

Main Session 3: Hợp tác giữa các CVĐC UNESCO khu vực và toàn cầu (Regional and International UNESCO Global Geopark Collaborations)

Main Session 4: Phổ biến Kiến thức Khoa học cho Giáo dục Cộng đồng (Popularizing Scientific Knowledge for Public Education)

Main Session 5: Bảo tồn, Khoa học và Nghiên cứu (Conservation, Science and Research)

Main Session 6: CVĐC, Du lịch bền vững và Phát triển bền vững địa phương (Geoparks, Sustainable Tourism and Sustainable Local Development)

Main Session 7: CVĐC, BĐKH và các tai biến địa chất (Geoparks, Climate Change and Geo-hazards)

Special Session 1Geodiversity of the Korean Peninsula (North and South Korea)

Special Session 2Management of Multi Internationally Designated Areas

Chi tiết Link tham dự vui xin vui lòng xem tại đây

4. Ngày 16/12/2021: Lễ Khai mạc 18:00 – 18:45 (GMT+7)

Closing Ceremony Dec. 16, 11:00-11:45 GMT
https://us02web.zoom.us/j/89006322425
ID: 890 0632 2425

Ngày Quốc tế Đa dạng địa học – International Geodiversity Day.

Tại phiên họp thứ 41 của Đại hội đồng UNESCO, Ngày Quốc tế Đa dạng địa học đã được chính thức cộng nhận. Kể từ đây, ngày 6 tháng 10 hàng năm sẽ là một ngày lễ kỷ niệm trên toàn thế giới nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng của thiên nhiên phi sinh vật đối với hạnh phúc và thịnh vượng của tất cả chúng ta trên hành tinh này!

Đa dạng địa học là gì?

Theo đề xuất của UNESCO về Ngày Quốc tế Đa dạng địa học: “Đa dạng địa học được định nghĩa là sự đa dạng của các yếu tố phi sinh của tự nhiên – bao gồm khoáng vật, đá, hóa thạch, đất, trầm tích, địa mạo, địa hình, các quá trình địa chất và hình thái, và các đặc điểm thủy văn như sông và hồ. Đa dạng địa học làm nền tảng cho đa dạng sinh học và là cơ sở của mọi hệ sinh thái, nhưng có những giá trị riêng độc lập với đa dạng sinh học ”.

Cùng nhìn lại chặng đường cho ngày lễ kỷ niệm này:

Ngày Quốc tế Đa dạng địa học được chính thức chấp nhận vào tháng 11/2021 bởi Phiên họp lần thứ 41 của Đại hội đồng UNESCO. (Ảnh: geodiversityday.org)

Xin chân thành cảm ơn IGD team: José Brilha, Murray Gray, Jack Matthews, Zbigniew Zwolinski và OxGVC Organising Committee Jack, Helena, Taha, Lucie, and Lubomir vì những nỗ lực cho ngày Quốc tế Đa dạng địa học được công nhận.

Biểu trưng của Ngày Quốc tế Đa dạng địa học cũng đã được công bố.

Biểu trưng Ngày Quốc tế Đa dạng địa học và tác giả Silas (Brazil)

Cùng tìm hiểu thêm về Ngày Quốc tế Đa dạng địa học và Đa dạng địa học qua website của http://geodiversityday.org/. Và hãy xem video clip để hiểu thêm về “nhân vật thầm lặng” đứng phía sau của sự đa dạng sinh học trên Trái Đất này.

Phương Chi (tổng hợp).

Bộ tem “Công viên Địa chất toàn cầu tại Việt Nam”

Công viên địa chất Toàn cầu là một khu vực tự nhiên, độc đáo, có ranh giới rõ ràng, trong đó chứa đựng một tập hợp các di sản địa chất có giá trị khoa học, phân bố trong phạm vi nhất định, hài hòa với cảnh quan thiên nhiên, đồng thời chứa đựng các giá trị về đa dạng sinh học, khảo cổ, lịch sử, văn hóa xã hội và có diện tích thích hợp để phát triển kinh tế địa phương, thông qua hình thức phát triển du lịch và các dịch vụ phụ trợ khác. Công viên địa chất quốc gia khi có đủ điều kiện sẽ được UNESCO công nhận là “Công viên địa chất Toàn cầu”.

Tại Việt Nam, UNESCO đã công nhận 03 Công viên địa chất toàn cầu là: Công viên địa chất Cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang), Công viên địa chất Non nước Cao Bằng và Công viên địa chất Đắk Nông.Với mục tiêu quảng bá hình ảnh, vinh danh 3 Công viên địa chất Toàn cầu tại Việt Nam đã được UNESCO công nhận, Bộ Thông tin và Truyền thông phát hành bộ tem “Công viên địa chất Toàn cầu” gồm 3 mẫu tem + 1 blốc, với giá mặt 4000đ, 4000đ, 8000đ và 15000đ do họa sĩ Nguyễn Du (Tổng công ty Bưu điện Việt Nam) thiết kế. Bộ tem được phát hành vào ngày 30/10/2021.

   1. Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn (được công nhận vào năm 2010)

         CVĐC toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn nằm ở cực Bắc Việt Nam, cách Hà Nội hơn 320 km, thuộc tỉnh Hà Giang và có đường biên giới dài với Trung Quốc. CVĐCTCCNĐ Đồng Văn có tổng diện tích 2356km2 bao gồm địa giới hành chính của 4 huyện (Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc). CVĐCTCCNĐ  Đồng Văn mang đặc trưng của miền núi phía Bắc, địa hình bị chia cắt mạnh có nhiều núi cao hiểm trở và nhiều thung lũng sâu, độ cao trung bình từ 1000 -1600m so với mặt nước biển.

         CVĐC toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn có đặc điểm nổi bật với những dải núi đá tai mèo sắc nhọn, những khe núi sâu và hẹp, những vách núi dựng đứng cao vút, các chóp núi như những kim tự tháp, các trũng sâu hun hút, hang động và các vườn đá tạo nên vẻ đẹp lạ thường, có giá trị to lớn không chỉ về du lịch mà còn có giá trị rất lớn về khoa học và giáo dục.

Mẫu tem giới thiệu “Công viên Địa chất toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn” 

         Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn là địa bàn cư trú của 17 dân tộc anh em. Quá trình phát triển và gắn bó lâu dài của cư dân các dân tộc trên vùng cao nguyên đá đã để lại những dấu ấn văn hóa đậm nét tạo nên sự đặc sắc và phong phú của văn hóa nơi đây. Trải qua những thăng trầm, biến cố của lịch sử và sự phát triển về mọi mặt của xã hội, đồng bào các dân tộc vùng Cao nguyên đá vẫn luôn giữ gìn được giá trị bản sắc riêng với nhiều nét đặc trưng và quyến rũ.

         2. Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Non Nước Cao Bằng (được công nhận vào năm 2018)

         Công viên Địa chất (CVĐC) Non Nước Cao Bằng nằm ở miền đất địa đầu phía bắc Việt Nam, cách Hà Nội khoảng 300km, diện tích hơn 3000 km2, bao gồm 6 huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh, Quảng Uyên, Trùng Khánh, Hạ Lang, Phục Hòa và một phần diện tích các huyện Hòa An, Nguyên Bình và Thạch An. Đây là nơi sinh sống của 9 dân tộc khác nhau, như Tày, Nùng, H’Mông, Kinh, Dao, Sán Chay……
         CVĐC Non Nước Cao Bằng là một miền đất hiếm có, nơi bạn có thể tìm hiểu lịch sử trên 500 triệu năm của Trái Đất qua các dấu tích còn lại ở đây. Các hóa thạch, trầm tích biển, đá núi lửa, khoáng sản…, đặc biệt là các cảnh quan đá vôi, là những minh chứng tuyệt vời cho sự tiến hóa và thay đổi của Trái Đất. Chúng xứng đáng là những di sản địa chất đặc sắc.

Mẫu tem giới thiệu “Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng” 

         CVĐC Non Nước Cao Bằng còn chứa đựng nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, đặc biệt là các di tích lịch sử cách mạng, trong đó có Di tích Quốc gia Đặc biệt Pác Bó – nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về nước năm 1941 lãnh đạo phong trào cách mạng sau hơn ba mươi năm bôn ba ở nước ngoài; Di tích Quốc gia Đặc biệt Rừng Trần Hưng Đạo – nơi năm 1944 Đại tướng Võ Nguyên Giáp thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay. CVĐC Non Nước Cao Bằng cũng nổi tiếng với phong phú các giá trị đa dạng sinh học cùng nhiều hệ sinh thái, giống loài động thực vật đặc hữu.

         3. Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông (được công nhận năm 2020)

Công viên Địa chất toàn cầu Đắk Nông có diện tích hơn 4.700km2, nằm trải dài trên địa bàn 6 huyện, thị xã gồm: Krông Nô, Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Song, Đắk Glong và thị xã Gia Nghĩa của tỉnh Đắk Nông. Với 65 điểm di sản địa chất, trong đó có 7 điểm di sản địa chất tầm quốc tế, Công viên Địa chất toàn cầu Đắk Nông hội tụ tất cả các giá trị tiêu biểu cả về địa chất, địa mạo, văn hóa cũng như đa dạng sinh học đặc trưng của khu vực.

Mẫu tem giới thiệu “Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Đắk Nông” 

Trong thời gian qua, Công viên Địa chất Đắk Nông thu hút nhiều du khách đến chiêm ngưỡng, tìm hiểu không chỉ vì khung cảnh độc đáo mà còn vì các giá trị văn hóa lâu đời của các dân tộc. Đến với Công viên Địa chất toàn cầu Đắk Nông, du khách được, khám phá, trải nghiệm hệ thống hang động núi lửa trong đá bazan độc đáo, nguyên sơ vốn được xác lập kỷ lục dài nhất Đông Nam Á; Ngắm nhìn các thắng cảnh hoang sơ, hùng vĩ như núi lửa Băng Mo (huyện Cư Jút), núi lửa Nâm Gleh R’luh (huyện Đắk Mil); Tham gia hành trình về nguồn tại các buôn làng của người Ê Đê, M’Nông với nhiều nét độc đáo của văn hóa bản địa; tham quan Vườn Quốc gia Tà Đùng với thắng cảnh Hồ Tà Đùng, vốn được ví là “Vịnh Hạ Long trên cao nguyên”…

Với hệ thống hang động núi lửa dài nhất Đông Nam Á, sự đa dạng sinh học, cùng nhiều nét độc đáo về văn hóa, địa chất, Công viên Địa chất toàn cầu Đắk Nông là điểm đến lí tưởng cho những ai thích khám phá và trải nghiệm.

  • Hoạ sĩ thiết kế/Designer: Nguyễn Du (VNPost)
  • Khuôn khổ tem/Stamp size: 46×31 mm
  • Khuôn khổ bloc/Bloc size: 120×80 mm
  • Khuôn khổ FDC/FDC size: 200×110 mm
  • Ngày hết hạn phát hành/Withdrawn date: 30/6/2023
Phong bì ngày phát hành đầu tiên

Theo thông tin từ: Công ty tem Việt Nam và các trang thông tin khác.

https://vietnamstamp.com.vn/thong-bao-phat-hanh-bo-tem-cong-vien-dia-chat-toan-cau.html

https://dangcongsan.vn/van-hoa-vung-sau-vung-xa-bien-gioi-hai-dao-vung-dan-toc-thieu-so/tin-tuc/gioi-thieu-bo-tem-cong-vien-dia-chat-toan-cau-595278.html

http://dongvangeopark.com/CVDC-VN

Hai khu dự trữ sinh quyển Việt Nam được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới

Tại kỳ họp lần thứ 33 Hội đồng Điều phối Quốc tế Chương trình Con người và Sinh quyển diễn ra từ ngày 13 đến 17/9, tại Abuja, Nigeria, 2 khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa và Cao nguyên Kon Hà Nừng của Việt Nam đã được tổ chức UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa

Trong phiên họp chiều 15/9/2021 (theo giờ Paris, Pháp), 2 hồ sơ đề cử của Việt Nam gồm Khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa và Khu dự trữ sinh quyển (DTSQ) Cao nguyên Kon Hà Nừng đã được Hội đồng Điều phối quốc tế Chương trình Con người và Sinh quyển UNESCO xem xét công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới (DTSQTG). Như vậy, trong giai đoạn 2000-2020, Việt Nam đã được công nhận tổng cộng 11 khu DTSQTG, trở thành quốc gia có số lượng Khu DTSQ đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á, sau Indonesia (19 khu DTSQ).

Khu DTSQ Núi Chúa với 1 vùng lõi là vườn quốc gia Núi Chúa, tổng diện tích 106.646,45 ha, là mẫu chuẩn duy nhất về hệ sinh thái rừng khô hạn đặc trưng và độc đáo của Việt Nam và Đông Nam Á. Hệ sinh thái rừng ở khu vực đề cử có giá trị đặc biệt vì thuộc vùng sinh thái Trường Sơn (Greater Annamites- thuộc khu vực SA4), là 1 trong 200 vùng sinh thái quan trọng toàn cầu và được lựa chọn là 1 trong những vùng ưu tiên bảo tồn cao nhất của tất cả các kiểu sinh cảnh chính trên trái đất.

Khu dự trữ sinh quyển Cao nguyên Kon Hà Nừng.

Khu DTSQ Cao nguyên Kon Hà Nừng, với tổng diện tích 413.511,67ha, gồm 2 vùng lõi là Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh và Khu Bảo tồn Thiên nhiên Kon Chư Răng, có hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình còn tương đối nguyên vẹn, có tính đa dạng sinh học cao đặc trưng cho hệ sinh thái rừng, hệ thực vật rừng và hệ động vật rừng của khu vực Tây Nguyên. Khu DTSQ này cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội và duy trì sự cân bằng sinh thái của khu vực Tây Nguyên và cả khu vực Trung Trung Bộ và Đông Nam Bộ.

Bên cạnh đó, 2 khu DTSQ Núi Chúa và Cao nguyên Kon Hà Nừng đều chứa đựng kho tàng di sản văn hóa phong phú và đặc sắc với nhiều đặc trưng nổi bật về các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của cộng đồng các dân tộc thiểu số đang sinh sống tại đây.

Các khu DTSQ khi được công nhận sẽ là mô hình phát triển kinh tế-xã hội bền vững của địa phương, kết nối hài hòa giữa bảo tồn đa dạng sinh học với giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc; giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên, nâng cao chất lượng cuộc sống, giáo dục và nghiên cứu khoa học… Đồng thời, những khu vực được công nhận bởi UNESCO này có tiềm năng to lớn trong việc cung cấp các giải pháp giải quyết 1 trong những thách thức quan trọng mà thế giới đang phải đối mặt, đó là cân bằng giữa phát triển kinh tế và xã hội và giải quyết các mối đe dọa toàn cầu đang hiện hữu như nghèo đói, dịch bệnh, khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, suy thoái môi trường và các tác động của biến đổi khí hậu.

Việc UNESCO công nhận thêm 2 Khu DTSQ của Việt Nam thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những giá trị về đa dạng sinh học cũng như nỗ lực bảo tồn thiên nhiên, phát triển bền vững của Việt Nam; đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người và văn hóa của Việt Nam đối với bạn bè thế giới.

Vụ Báo chí – Bộ Ngoại giao

https://baomoi.com/hai-khu-du-tru-sinh-quyen-viet-nam-duoc-unesco-cong-nhan-la-khu-du-tru-sinh-quyen-the-gioi/c/40240490.epi

Một số hình ảnh của hai KDTSQ vừa được công nhận:

Kỳ quan Thác 50 trong KDTSQ Kon Hà Nừng. (Ảnh Phương Linh)
Khu dự trữ sinh quyển Kon Hà Nừng là nơi cư trú của các loài quý hiếm như Voọc chà vá chân xám (Pygathrix cinerea). Đây là loài linh trưởng đặc hữu quý hiếm của Việt Nam, được xếp vào loại cực kỳ nguy cấp, chỉ còn khoảng 1.000 cá thể trong tự nhiên. (Ảnh: Khu dự trữ sinh quyển Kon Hà Nừng).
Hang Rái. Ảnh: Thiên Thạch
Bãi nước Ngọt. Ảnh Thiên Bình
Loài Cheo lưng bạc Việt Nam (tên khoa học Tragulus versicolor) tại khu vực Vườn quốc gia Núi Chúa. Đây là loài động vật hơn 30 năm qua chưa có hình ảnh hay thông tin phát hiện tại khu vực cụ thể ở Việt Nam. Ảnh: TTXVN

Như vậy, tính đến 2021, Việt Nam đã có 11 Khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận

1. Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ (2000).

2. Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai (2001).

3. Khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng (2004).

4. Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà (2004).

5. Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang (2006).

6. Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An (2007).

7. Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm (2009).

8. Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau (2009).

9. Khu dự trữ sinh quyển Lang Biang (Đà Lạt) (2015).

10. Khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa (Ninh Thuận) (2021)

11. Khu dự trữ sinh quyển Kon Hà Nừng (Gia Lai) (2021).

Nguồn ảnh:

https://baoquocte.vn/hap-dan-kon-ha-nung-dia-danh-vua-duoc-cong-nhan-la-khu-du-tru-sinh-quyen-cua-the-gioi-158816.html

https://ngoisao.net/hang-rai-ninh-thuan-mot-lan-den-mai-khong-quen-3342354.html

https://baotintuc.vn/du-lich/xay-dung-ho-so-de-cu-khu-du-tru-sinh-quyen-nui-chua-ninh-thuan-20200626224449061.htm