Vườn kinh đá ở chùa Phước Hậu

Hôm chủ nhật (19/02/2017), bác Thu alo, alo… rủ đi chùa Phước Hậu thăm quan Vườn kinh đá, đồng thời góp ý cho ý tưởng của thày Thích Phước Cẩn về việc đưa một số loại đá đặc trưng lịch sử phát triển địa chất khu vực về khuôn viên chùa phục vụ thăm quan, tìm hiểu về địa chất của người dân và du khách.

Đi thăm chùa đầu năm cùng với ý tưởng thật đáng trân trọng của thày Thích Phước Cẩn thực sự làm cho mình phấn khích. Chuẩn bị đồ nghề vừa xong, xe bác Thu đến, lên đường ngay (9:30). Trên đường đi, thày Cẩn cho biết thày Lê Quang Sáng (Đại học Cần Thơ) đã tới chùa.

Vị trí chùa Phước Hậu
Vị trí chùa Phước Hậu

13:00 tới chùa Phước Hậu thuộc xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Mọi người gặp gỡ, hỏi thăm sức khỏe và giới thiệu về nhau trong một không gian tĩnh mịch bao quanh bởi đá và cây bên dòng sông Trà Ôn êm mát.

Nhà chùa xắp cơm trên bàn đá, bác Thu và mình dùng bữa trưa muộn. Các món chay thật ngon: khổ qua nhồi thịt, bắp non xào cà rốt, thịt nấu đậu; đặc biệt có món tương hạt.

Các món chay đặt trên bàn đá
Các món chay được đặt trên bàn đá

Cơm, nước xong xuôi, thày Phước Cẩn giới thiệu Vườn kinh đá trong khuôn viên chùa Phước Hậu. Vườn kinh đá có diện tích 10.000m2 thực ra gồm 3 vườn kinh: Vườn kinh Pháp cú, Vườn kinh A Di Đà, và Vườn kinh Bắc truyền trích diễm. Trong đó Vườn kinh Pháp cú được xây dựng quy mô nhất với diện tích khoảng 4.000m2.

Vườn kinh pháp cú mô phỏng 8 lá bồ đề xòe ra theo tám hướng, tượng trưng Bát chánh đạo của Phật giáo với trung tâm vườn là ngọn núi có bốn tượng Phật Thích Ca Mâu Ni.

“Cuống và lá bồ đề” theo các hướng được xắp xếp bằng 216 phiến đá granit màu xám cao 120 cm, rộng 90 cm, dày 8-9 cm. Hai mặt phiến đá trơn, nhẫn được khắc 432 bài kinh – mỗi bài là những lời răn dạy của Phật gồm những câu ngắn gọn, đơn giản nhưng đầy ý nghĩa.

Vườn kinh Pháp cú
Vườn kinh Pháp cú dưới chân những cây sao cao vút
Những bài kinh ngắn gọn, đơn giản nhưng đầy ý nghĩa.
Những bài kinh ngắn gọn, đơn giản nhưng đầy ý nghĩa.

Vườn kinh A Di Đà có 31 phiến đá được xếp theo hình thể nước Việt Nam, tạo thành một hồ nhỏ trồng sen. Mỗi miền Bắc, Trung, Nam có một phiến đá trong lòng hồ ghi ngôi chùa biểu trưng.  Các bài kinh ở vườn được dịch theo thể thơ lục bát.

Vườn kinh Vườn kinh A Di Đà
Vườn kinh A Di Đà
Vườn kinh A Di Đà - phần miền Nam
Vườn kinh A Di Đà – phần miền Nam
Vườn kinh A Di Đà - phần miền Trung và Bắc
Vườn kinh A Di Đà – phần miền Trung và Bắc

Vườn kinh Bắc truyền trích diễm gồm với 15 phiến đá, các bài kinh được dịch theo thể văn xuôi; các khối đá, cột đá lớn khắc chữ to với những câu triết lý Phật giáo.

Vườn kinh Bắc truyền trích diễm
Vườn kinh Bắc truyền trích diễm
Vườn kinh Bắc truyền trích diễm được bố trí dọc sông Trà Ôn
Vườn kinh Bắc truyền trích diễm được bố trí dọc sông Trà Ôn

Ý tưởng xây dựng vườn kinh đá của thày thầy Thích Phước Cẩn – trụ trì chùa Phước Hậu từ lần sang Myanmar du lịch, thăm quan và thấy kinh pháp cú được khắc trên đá bằng tiếng Pali. Tháng 3-2014 công trình được khởi công và hoàn thành vào tháng 3-2016.

Kết thúc thăm quan Vườn kinh đá, thày Phước Cẩn trao đổi với mọi người ý tưởng đưa các đá đặc trưng cho lịch sử phát triển địa chất (trước mắt vùng đồng bằng Sông Cửu Long) về Vườn kinh đá để mọi người (nhất là người dân địa phương) có điểm thăm quan, học tập, tìm hiểu khái quát về địa chất khu vực.

Trên cơ sở danh sách đề xuất lấy mẫu mà thày Lê Quang Sáng phác thảo; Hải và Thu góp thêm ý kiển để triển khai công việc. Một bản đồ các loại đá, vị trí lấy mẫu sẽ được Hải thực hiện sớm để thày Cẩn có cơ sở triển khai công việc.

Trao đổi thông tin để triển khai công việc tiếp theo
Trao đổi thông tin để triển khai công việc tiếp theo

16:00 kết thúc phần trao đổi, trước khi chia tay thày Phước Cẩn tặng quà cho thày Sáng, Thu và Hải – những quả bưởi “lộc chùa” đầu năm thật sự ngọt ngào.

Vườn kinh đá – một công trình văn hóa gắn kết Tâm linh – Khoa học – Du lịch sẽ là điểm đến đầy lý thú của du khách trong và ngoài nước.

H & H

Các hòn đá chạm khắc ở Peru: Một thư viện thời tiền sử?

Cormelia Ritter, Epoch Times

Thoạt nhìn, Ica, một thị trấn nhỏ bé ở Peru tọa lạc trên sa mạc Nazca, cách thủ đô Lima 5 giờ xe buýt, không có bất cứ điều gì ấn tượng. Nhưng ngay khi bước chân vào Bảo tàng Cabrera, nơi trưng bày những hòn đá chạm khắc của Ica, một thế giới hoàn toàn khác biệt sẽ hiện lên trước tầm mắt.

Hơn 10.000 hòn đá với kích thước khác nhau được trưng bày chật kín trong bảo tàng. Chúng đều có một bề mặt trơn nhẵn, màu đen, bên trên chạm khắc các hình tượng. Khi nhấc chúng lên, bạn sẽ cảm nhận thấy chúng nặng hơn rất nhiều so với những hòn đá  cùng kích cỡ thông thường.

Hình vẽ trên hòn đá này cho thấy một con khủng long đang ăn thịt một người, khiến một số người cho rằng con người đã có mặt trên Trái Đất từ 65 triệu năm trước (thời đại khủng long). (Ảnh: Eugenia Cabrera/Museo Cabrera)
Hình vẽ trên hòn đá này cho thấy một con khủng long đang ăn thịt một người, khiến một số người cho rằng con người đã có mặt trên Trái Đất từ 65 triệu năm trước (thời đại khủng long). (Ảnh: Eugenia Cabrera/Museo Cabrera)
Bao phủ trong một loại chất liệu: Những hòn đá Ica là loại đá andexit được phủ một lớp chất liệu chưa được xác định. (Ảnh: Tư liệu của Eugenia Cabrera/Museo Cabrera)
Bao phủ trong một loại chất liệu: Những hòn đá Ica là loại đá andesit được phủ một lớp chất liệu chưa được xác định. (Ảnh: Tư liệu của Eugenia Cabrera/Museo Cabrera)

Đọc tiếp “Các hòn đá chạm khắc ở Peru: Một thư viện thời tiền sử?”

CÁC NÚI LỬA ĐẢO LÝ SƠN CÓ TUỔI HOLOCEN

Hà Quang Hải, Nguyễn Ngọc Thu, Nguyễn Thị Hạnh Nhi

I.Giới thiệu

Huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi gồm đảo lớn (cù lao Ré) và đảo nhỏ (cù lao Bờ bãi) có tổng diện tích xấp xỉ 10 km2. Với những cảnh đẹp do núi lửa tạo nên giữa biển khơi, được xem là cảnh quan hiếm có và duy nhất của Việt Nam, đảo Lý Sơn đang được tỉnh Quảng Ngãi tiến hành các thủ tục để được công nhận là Công viên Địa chất toàn cầu. Mặc dầu vậy, việc nghiên cứu địa chất đảo Lý Sơn còn ở mức độ sơ lược, những vấn đề địa chất, địa mạo còn có những ý kiến khác nhau trong đó đáng chú ý nhất về cấu trúc núi lửa và tuổi của các đá cấu tạo nên chúng.

Hầu hết các tác giả cho rằng phần lớn khối lượng vật liệu cấu tạo đảo Lý Sơn là các trầm tích – phun trào có tuổi Neogen; chiếm khối lượng nhỏ là bazan dòng chảy có tuổi Pleistocen sớm – giữa và Holocen. Các mức tuổi này được các tác giả dựa vào kết quả bào tử phấn và tuổi tuyệt đối.

Chúng tôi đã xác định hoạt động núi lửa tại Lý Sơn gồm hai kiểu chính, đó là các nón núi lửa phun nổ (cinder cone; scoria cone) và bazan dòng chảy (lava flow) có tuổi Pleistocen muộn – Holocen.

Những kết quả khảo sát mới (cuối tháng 3 – đầu tháng 4 và cuối tháng 6 – đầu tháng 7) tại một số vị trí trên đảo Lý Sơn cho thấy một khối lượng lớn các trầm tích phun nổ và bazan dòng chảy tạo nên địa hình nhô trên mặt biển chủ yếu có tuổi Holocen.

II.Tuổi bazan đảo Lý Sơn theo các tác giả

– Nguyễn Kinh Quốc (1995) phân chia bazan Cù lao Ré thành hai phần [7]: phần dưới chưa lộ đáy gồm vài lớp mỏng bazan xen kẹp trầm tích vụn  (cát mịn, sạn, cuội dăm và cát sét lẫn vật liệu phun trào bazan) dày 30-70 m; phần trên là basan bọt xốp, độ rỗng lớn, hyalobazan, bazan kiềm, bom và tro núi lửa, dày 30 – 50 m. Chúng tạo nên 5 họng núi lửa trẻ ở nam Cù lao Ré và cù lao Bờ Bãi. Chúng bị phủ bởi lớp cát sạn vôi mỏng chứa vỏ sò, ốc, san hô tuổi Holocen.

– Nguyễn Văn Trang và nnk (1997), trong công trình bản đồ địa chất nhóm tờ Quảng Ngãi, xếp hầu hết bazan có tuổi Neogen [8].

– Nguyễn Hoàng, Martin Flower (1997) dựa và tuổi tuyệt đối, chia phun trào bazan thành hai giai đoạn là 12 triệu năm (Miocen) và 0,4-1,2 triệu năm (Pleistocen sớm – giữa (Q11-2) [5].

– Phạm Hùng và nnk (2001) phân chia bazan ở Lý Sơn theo 3 mức tuổi (ứng với ba giai đoạn hoạt động): 1) bazan phân bố ở phần thấp mặt cắt dày từ vài chục mét tới 70 m có tuổi Miocen muộn – Pliocen (N13 – N2) dựa vào tuổi bào từ phấn hoa; 2) bazan olivine kiềm, hyalobazan, bazan bọt xốp tạo nên bề mặt cao nguyên cao 20 m ở trung tâm đảo có tuổi Pleistocen (βQ11-3) và 3) bazan bọt xốp, bazan olivine kiềm phân bố hạn chế ở khu vực miệng núi lửa An Hải có tuổi Holocen (βQ2) [6].

– Lê Đức An (2005) phân chia bazan Lý Sơn thành 1) đá trầm tích – phun trào tuổi Neogen (N13 – N2 dựa theo kết quả bào tử phấn [6]) là đá cổ nhất lộ trên một diện tích lớn, được hình thành trong môi trường biển nông trên thềm lục địa và 2) bazan tuổi Pleistocen sớm – giữa (Q11-2) tạo nên các phễu, chóp núi lửa, các dòng chảy bazan ≤ 30 m hình thành trong giai đoạn núi lửa hoạt động mạnh mẽ [1].

– Chương trình Núi lửa Toàn cầu của Viện Smithsonian [6]. Các núi lửa thuộc Nhóm Cù Lao Ré (4 trên mặt đất và 9 trên đáy biển) thuộc kiểu strombolian có tuổi nhỏ hơn 10.000 năm (Holocen) [9].

– Hà Quang Hải và nnk (2012, 2016) trên cơ sở quan sát địa mạo đã xác định các trầm tích phun nổ và bazan dòng chảy tạo nên địa hình cù lao Ré, cù lao Bờ Bãi có tuổi Pleistocen muộn – Holocen sớm  (Q13 – Q21) [3, 4].

III. Kết quả khảo sát thực địa

Đợt khảo sát từ 30 tháng 06 đến ngày 06 tháng 07 năm 2016 ghi nhận tầng cát kết san hô phân bố rộng rãi quanh cù lao Ré và cù lao Bờ Bãi. Tầng cát kết san hô này bị bazan dòng chảy phủ trên được quan sát tại nhiều vết lộ. Các mảnh, khối san hô được phát hiện trong cấu trúc vật liệu phun nổ lộ ra tại vách biển Hang câu – Chùa Hang. Các mảnh san hô, ốc biển cùng với các khối, mảnh đá bazan, cát kết tuf nằm rải rác trên miệng núi lửa Hang Câu – Chùa Hang.

III.1 Trên cù lao Ré

1) Điểm khảo sát LS. 457 (cổng Tò Vò)

Cát kết san hô mầu xám trắng bị các lớp bazan màu đen (cấu tạo cổng Tò Vò) phủ trên. Tầng cát kết san hô lộ 1,0 m gồm các khối xương san hô rắn chắc (trông còn tươi) có kích thước tới 10 – 15 cm được gắn kết bằng cát, sạn san hô (Hình 1).

Hình 1. Bazan dòng chảy cổng Tò Vò phủ trên cát kết san hô
Hình 1. Bazan dòng chảy cổng Tò Vò phủ trên cát kết san hô

Theo bãi biển (bắc Giếng Tiền) từ cổng Tò Vò về phía đông khoảng 1000 m lộ liên tục các lớp cát kết san hô; mỗi lớp dày trung bình 0,1 m cắm về phía biển (phía bắc) với góc dốc khoảng 10o. Bề mặt lớp cát kết san hô trơn, nhẫn do mài mòn, trên đó có những lỗ tròn nhỏ và rải rác có cuội bazan.

Hình 2. Các lớp cát kết san hô bãi biển phía bắc núi lửa Giếng Tiền lộ khi thủy triều xuống thấp
Hình 2. Các lớp cát kết san hô bãi biển phía bắc núi lửa Giếng Tiền lộ khi thủy triều xuống thấp

Đọc tiếp “CÁC NÚI LỬA ĐẢO LÝ SƠN CÓ TUỔI HOLOCEN”

ĐẾN CAO NGUYÊN LÂM VIÊN MÙA HOA DÃ QUÌ 2016

Bao quanh sân bay là cánh đồng hoa dã qùi
Bao quanh sân bay là cánh đồng hoa dã qùi
Sân bay Liên Khương được thiết kế theo hình ảnh hoa cúc quỳ (dã quì), loài hoa đặc trưng của cao nguyên Lâm Viên.
Sân bay Liên Khương được thiết kế theo hình ảnh hoa cúc quỳ (dã quì), loài hoa đặc trưng của cao nguyên Lâm Viên.
Đồi trà Cầu Đất, Xuân Trường
Đồi trà Cầu Đất, Xuân Trường

Đọc tiếp “ĐẾN CAO NGUYÊN LÂM VIÊN MÙA HOA DÃ QUÌ 2016”

VÀI HÌNH ẢNH VỀ ĐỢT KHẢO SÁT ĐỊA MÔI TRƯỜNG ĐẢO PHÚ QUỐC LẦN ĐẦU – THÁNG 06, 2010

Từ năm 2010 đến nay đã bốn lần tới đảo Phú Quốc, trong đó 3 lần hướng dẫn sinh viên khảo sát thực địa làm đề tài và 1 lần đưa gia đình thăm quan đảo. Mỗi lần đến đảo đều chụp khá nhiều ảnh về cảnh quan, môi trường đảo. Mỗi lần đến đều có những kỷ niệm riêng, nhưng đáng nhớ nhất là chuyến khảo sát lần đầu tại đảo.

Tháng 06, năm 2010 dẫn ba sinh viên nghiên cứu thực địa theo các lộ trình quanh đảo. Phú Quốc lúc đó còn hoang sơ, lộ trình khảo sát chủ yếu trên những con đường đất lầy lội, những cầu tre trơn, trượt khi mưa.

Nghiên cứu địa môi trường đảo Phú Quốc thật thú vị, các hệ thống bậc thềm được bảo tồn khá tốt, cấu trúc cuesta hình thành sự bất đối xứng giữa sườn đông và tây đảo. Các di sản địa chất, địa mạo như mũi đá Dinh Cậu, đá chồng An Thới, các bãi biển cát mịn, đẹp làm du khách say đắm.

Cùng chung một lộ trình ban đầu, nhưng ba sinh viên thực hiện ba đề tài theo ba cấp độ khác nhau:

Nguyễn Thanh Thúy (khóa luận) với đề tài “Nghiên cứu giá trị địa chất, địa mạo vùng Hà – Kiên – Phú phục vụ cho việc xây dựng công viên địa chất”

Nguyễn Ngọc Tuyến (luận văn cao học) với đề tài “Đánh giá tổn thương đới ven biển đảo Phú Quốc trong điều kiện mực nước biển dâng”

Lê Hoài Nam (luận án tiến sỹ) với đề tài “Nghiên cứu xói lở bờ biển đảo Phú Quốc trong điều kiện mực nước biển dâng”.

Thúy đã bảo vệ khóa luận vào năm 2010, Tuyến bảo vệ luận văn vào năm 2012, và ngày 14 tháng 10 năm 2016 Nam đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ Khoa học môi trường. Việc bảo vệ đề tài luận án tiến sỹ của Nam xem như thày trò đã hoàn thành nhiệm vụ học tập ban đầu, tạm kết thúc một giai đoạn nghiên cứu đảo Phú Quốc kéo dài khoảng 6 năm.

Những hình ảnh dưới đây là kỉ niệm đợt khảo sát lần đầu tại Phú Quốc.

Nam, Tuyến, Thúy khảo sát xói lở
Nam, Tuyến, Thúy khảo sát xói lở
Nam khảo sát xói lở bờ biển
Nam khảo sát xói lở bờ biển
Tuyến, Thúy khảo sát thềm biển Holocen
Tuyến, Thúy khảo sát thềm biển Holocen
Nam khảo sát thềm biển Pleistocen
Nam khảo sát thềm biển Pleistocen
Bốn thày trò trên lộ trình khảo sát
Bốn thày trò trên lộ trình khảo sát

Đọc tiếp “VÀI HÌNH ẢNH VỀ ĐỢT KHẢO SÁT ĐỊA MÔI TRƯỜNG ĐẢO PHÚ QUỐC LẦN ĐẦU – THÁNG 06, 2010”

Jonathan B. Tourtellot – Nhà tư vấn Du lịch, Tác giả chính của Điều lệ Địa du lịch

jonathan

I. Nhà tư vấn du lịch

Jonathan Tourtellot là nhà tư vấn chuyên về du lịch bền vững và quản lý điểm đến. Ông cũng là nhà báo và biên tập viên các tạp chí Du lịch, Địa lý, và Khoa học. Mong muốn của ông là khuyến khích và thúc đẩy việc bảo vệ các điểm đến. Tourtellot là người khởi đầu khái niệm địa du lịch với định nghĩa “du lịch nhằm duy trì hoặc tăng cường đặc điểm địa lý của một địa điểm bao gồm di sản, thẩm mỹ, văn hóa, môi trường và phúc lợi của những người dân tại điểm đó. “Ông đã giúp các Hiệp hội Du lịch Hoa Kỳ phát triển nghiên cứu Địa du lịch năm 2002: Xu hướng mới trong Du lịch, một cuộc khảo sát hành vi du khách Hoa Kỳ và thái độ về vấn đề phát triển bền vững mang tính bước ngoặt.

Tourtellot đã sáng lập và điều hành Trung tâm Địa lý Quốc gia về Các điểm đến Bền vững trong chín năm. Ông là tác giả chính của Điều lệ địa du lịch (Geotourism Charter) với một tập hợp các nguyên tắc quản lý được thông qua và thực hiện bởi các điểm đến khác nhau trên thế giới từ Na Uy và Guatemala đến Thung lũng Douro của Bồ Đào Nha và thành phố Montreal. Ông khởi xướng và giám sát các cuộc điều tra Quản lý Điểm đến được báo cáo hàng năm trên trang bìa ấn bản phát hành Tháng Mười Một/Mười của tạp chí National Geographic Traveler. Để mở rộng phạm vi ngành du lịch và quản lý điểm đến, ông đã viết hai câu chuyện có chủ đề “The Two Faces of Tourism” và “The Tourism Wars,” cả hai câu chuyện đã giành giải thưởng Lowell Thomas. Là biên tập viên địa du lịch cho tạp chí Traveler, ông đã viết về các chủ đề như: sự mở rộng khu nghỉ mát, du lịch tự nhiên, du lịch di sản, và biến đổi khí hậu.

Tourtellot đã xây dựng chương trình Hướng dẫn Bản đồ Địa du lịch của Hội Địa lý Quốc gia. Chương trình này độc đáo ở chỗ mời gọi sự tham gia đầy đủ của các cư dân điểm đến và vì vậy đã nâng cao nhận thức về những tài sản đặc thù của địa phương. Là nhà địa lý học, đôi khi là nhiếp ảnh gia, và thuyết minh công chúng, Tourtellot đã diễn thuyết trước rất nhiều nhóm quốc gia và quốc tế, bao gồm các Tổ chức Du lịch Thế giới, UNESCO, và Hội đồng Du lịch và Du lịch Thế giới.

Trước khi hoạt động trong lĩnh vực du lịch, ông đã viết một vài sách National Geographic và là biên tập viên dự án cho một số tạp chí khác như: Britain and Ireland, Into the Unknown, Photographer’s Field Guide, and Exploring Our Living Planet cùng với tiến sĩ Robert Ballard. Trong các sách và tạp chí, ông đã viết về các chủ đề khác nhau, từ núi lửa Iceland đến rừng mưa Amazon, từ các thung lũng sa mạc của Nevada đến các đầm lầy châu thổ Okavango của Botswana. Ông sống ở sườn núi bắc Virginia.

II. Điều lệ Địa du lịch

Dưới đây là bản mẫu được thiết kế chung cho các quốc gia, nhưng cũng có thể được điều chỉnh cho phù hợp với các tỉnh, hoặc các vùng nhỏ hơn.

XÉT RẰNG cách tiếp cận địa du lịch là toàn diện, không chỉ tập trung vào môi trường, mà còn về sự đa dạng của các tài sản văn hóa, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh của _______,

XÉT RẰNG cách tiếp cận địa du lịch là khuyến khích người dân và du khách cùng tham gia thay vì chỉ là những khán giả du lịch và

XÉT RẰNG cách tiếp cận địa du lịch là giúp xây dựng một ý thức về bản sắc và niềm tự hào dân tộc, nhấn mạnh tính đích thực và duy nhất đối với________

Các bên đã ký vào Thỏa thuận này cam kết hỗ trợ các nguyên tắc địa du lịch để duy trì và tăng cường đặc điểm địa lý của _________bao gồm môi trường, văn hóa, thẩm mỹ, di sản và phúc lợi của người dân địa phương. Dưới đây là 13 nguyên tắc địa du lịch để chính quyền và các nhà khai thác du lịch áp dụng:

1.Tính toàn vẹn của địa phương: Tăng cường đặc điểm địa lý bằng cách phát triển và cải thiện nó theo những cách đặc biệt cho địa phương, phản ánh di sản thiên nhiên và văn hóa của nó, để khuyến khích sự khác biệt của thị trường và niềm tự hào văn hóa.

2.Các luật quốc tế: Tuân thủ các nguyên tắc trong Luật Toàn cầu của Tổ chức Du lịch Thế giới về Đạo đức trong Du lịch và Các nguyên tắc trong Điều lệ Du lịch Văn hóa được thiết lập bởi Hội đồng Quốc tế về Di tích và Di sản (ICOMOS).

3.Chọn lọc thị trường: Khuyến khích tăng trưởng trong các phân khúc thị trường du lịch có khả năng để tăng giá trị, tôn trọng và phổ biến thông tin về các tài sản đặc biệt của địa phương.

4.Đa dạng thị trường: Khuyến khích đầy đủ loại hình các cơ sở tạm trú và thực phẩm thích hợp để thu hút toàn bộ các cấp độ du khách của thị trường địa du lịch và do đó tối đa hóa sức bật kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn.

5.Sự hài lòng du lịch: Đảm bảo làm hài lòng du khách, khuyến khích họ mang những câu chuyện kỳ nghỉ mới về nhà và gửi cho bạn bè để trải nghiệm những điều tương tự, do đó cung cấp nhu cầu tiếp tục cho điểm đến.

6.Sự tham gia của cộng đồng: Du lịch dựa vào nguồn lực cộng đồng tới mức có thể, khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương và các nhóm công dân xây dựng quan hệ đối tác để thúc đẩy và cung cấp một trải nghiệm viếng thăm trung thực và bán sản phẩm địa phương một cách hiệu quả. Giúp các các doanh nghiệp phát triển phương pháp tiếp cận du lịch được xây dựng trên nền tảng tự nhiên, lịch sử và văn hóa khu vực, bao gồm thực phẩm, đồ uống, hàng thủ công và nghệ thuật biểu diễn, vv.

7.Lợi ích cộng đồng: Khuyến khích các doanh nghiệp trung bình và nhỏ và chiến lược kinh doanh du lịch trong đó nhấn mạnh lợi ích kinh tế và xã hội của cộng đồng tham gia, đặc biệt là xóa đói giảm nghèo với thông tin rõ ràng về chính sách quản lý điểm đến cần thiết để duy trì những lợi ích.

8.Bảo vệ và nâng cao sức hấp dẫn điểm đến: Khuyến khích các doanh nghiệp duy trì môi trường sống tự nhiên, các điểm di sản, tính thẩm mỹ và văn hóa địa phương. Ngăn chặn suy thoái bằng cách giữ một lượng du khách trong giới hạn tối đa chấp nhận được. Tìm các mô hình kinh doanh mà có thể hoạt động có lãi trong giới hạn tối đa chấp nhận được. Thuyết phục, khuyến khích, và thực thi pháp luật khi cần thiết.

9.Sử dụng đất: Lường trước các áp lực phát triển và áp dụng các kỹ thuật để ngăn chặn phát triển quá mức và suy thoái môi trường. Kiềm chế sự mở rộng nhà nghỉ, đặc biệt là trên bờ biển và hải đảo để giữ lại sự đa dạng của môi trường tự nhiên, cảnh quan và đảm bảo sự tiếp cận của mọi người với cảnh biển. Khuyến khích các điểm tham quan du lịch khép kín, chẳng hạn như các công viên chủ đề quy mô lớn và trung tâm qui ước không liên quan đến đặc điểm của địa phương, được bố trí tại các địa điểm nghèo túng hơn mà không có tài sản sinh thái, cảnh quan, hay văn hóa quan trọng.

10.Bảo tồn các nguồn tài nguyên: Khuyến khích các doanh nghiệp giảm thiểu ô nhiễm nước, chất thải rắn, tiêu thụ năng lượng, sử dụng nước, hóa chất cảnh quan, và ánh sáng ban đêm quá sáng. Quảng cáo các biện pháp này một cách hấp dẫn, tạo thị trường du lịch thân thiện với môi trường.

11.Qui hoạch: Công nhận và tôn trọng nhu cầu kinh tế trước mắt mà không phải hy sinh đặc điểm địa lý dài hạn và tiềm năng địa du lịch của điểm đến. Phát triển cộng đồng mới tại điểm đến trong trường hợp du lịch thu hút sự nhập cư của người lao động. Cố gắng đa dạng hóa nền kinh tế và giới hạn dòng dân tới mức bền vững. Áp dụng chiến lược thích hợp để giảm thiểu các hoạt động không phù hợp với địa du lịch và gây tổn hại đến hình ảnh của điểm đến.

12.Giải thích tương tác: Khuyến khích cả du khách và chủ nhà tìm hiểu về địa phương. Khuyến khích cư dân khoe các di sản thiên nhiên và văn hóa cộng đồng của họ để du khách có được một kinh nghiệm phong phú hơn và người dân bộc lộ niềm tự hào về địa phương của họ.

13.Đánh giá: Thiết lập một quy trình đánh giá và được tiến hành thường xuyên bởi một ủy ban độc lập đại diện cho mọi lợi ích các bên liên quan và công bố công khai các kết quả đánh giá.

Hạnh Nhi

Nguồn: http://www.nationalgeographic.com/explorers/bios/jonathan-tourtellot/

http://travel.nationalgeographic.com/travel/geotourism/about

 

TIỀM NĂNG ĐỊA DU LỊCH KHU VỰC ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI

Phạm Thị Thu, Hà Quang Hải

I. Giới thiệu

Huyện Định Quán phân bố ở phía đông bắc tỉnh Đồng Nai, nơi có sự hiện diện một số dạng địa hình khá độc đáo như các miệng núi lửa dạng chữ “C”, dạng trũng (miệng âm), dạng vòm (miệng dương); bazan dòng chảy phủ trên các bậc thềm sông; các khối đá xâm nhập bóc mòn chồng lên nhau; các thung thũng xâm thực tạo nên cảnh quan đẹp. Một số dạng địa hình đã được khai thác phục vụ du lịch như Đá Ba chồng, Thác Mai, Bầu Nước Sôi.

Theo quốc lộ 20 từ Ngã ba Dầu Giây đi Đà Lạt qua khu vực Định Quán, ngồi trong ô tô hành khách có thể thấy thoáng qua một vài dạng địa hình đẹp hoặc kỳ lạ như Thung lũng sông khu vực Cầu La Ngà, cột Đá ba chồng, hai chồng, miệng núi lửa phân bố rải rác.

Bài viết này trích từ Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên chuyên ngành Tài nguyên Thiên nhiên và Môi trường K_12. Đây là kết quả bước đầu trong việc nghiên cứu các geosite phục vụ thăm quan, giải trí, nghiên cứu và học tập về địa du lịch ở khu vực Định Quán, tỉnh Đồng Nai.

II. Địa hình có tiềm năng phát triển địa du lịch

Địa hình có tiềm năng phát triển địa du lịch ở khu vực Định Quán gồm: địa hình núi lửa, địa hình đá xâm nhập bóc mòn, cảnh quan thung lũng sông.

II.1 Địa hình núi lửa

Địa hình núi lửa liên quan đến hai giai đoạn hoạt động gồm vòm núi lửa do phun nổ – phun trào và dòng chảy dung nham.

1) Vòm núi lửa

Một vòm núi lửa có đường kính khoảng 10 km, phân bố ở khu vực Túc Trưng với độ cao 60 – 70 m ở chân vòm đến 100 m ở phần trung tâm. Nhô cao trên vòm là các miệng núi lửa có độ chênh cao 100 – 150 m. Trong các văn liệu địa chất, các đá hình thành địa hình vòm núi lửa được xếp vào hệ tầng Xuân Lộc, chủ yếu la bazan tholeit, tuổi Pleistocen giữa. Bazan hệ tầng Xuân Lộc phong hóa tạo đất đỏ, vàng.

Ở đông bắc Định Quán cũng có khá nhiều núi lửa cũng được xem là hình thành trong giai đoạn Pleistocen muộn như cụm 6 núi lửa ở khu vực Phú Lợi, Phú Hòa và rải rác ở Gia Canh.

2) Dòng chảy dung nham

Địa hình dòng chảy dung nham có bề mặt khá bằng phẳng, phân bố rộng rãi ở phía đông huyện Định Quán. Đó là lớp phủ mỏng (trong lòng sông, trên thềm sông); chủ yếu là bazan olivine màu đen có nhiều lỗ rỗng, phong hóa cơ học tạo nên các khối nứt vỡ. Các đá bazan dòng chảy được xếp vào hệ tầng Phước Tân, hoặc Cây Gáo, tuổi Pleistocen muộn. Khu vực Tân Phú, Cát Tiên cũng phổ biến loại bazan này.

Trong khu vực Định Quán đã xác định được 17 miệng núi lửa, chủ yếu là miệng dương; một số miệng trũng có dạng chữ “C” khá rõ. Bàu nước sôi là kiểu miệng núi lửa âm có tuổi Pleistocen muộn.

II.2 Đá xâm nhập bóc mòn

Định Quán có khá nhiều các khối đá xâm nhập (granodiorit) lộ rải rác ở nhiều nơi, nhưng tập trung ở thị trấn Định Quán với diện tích khoảng 2,5 ha.

Về hình thái: các khối đá có dạng cột, dạng tường và dạng khối.

Về kích thước: các khối đá có kích thước to nhỏ khác nhau từ vài m đến 30 – 40 m, độ cao các khối thuộc ba mức: 5 – 7 m, 10 – 12 m, và 21 – 25 m.

Về nguồn gốc: các khối đá được hình thành do sông xâm thực, các khối đá cao 20 – 25 m tương đương với bậc thềm cùng độ cao phổ biến ở vùng hạ lưu sông Đồng Nai, có tuổi vào Pleistocen muộn.

Các khối đá chồng lên nhau, chênh vênh như Đá Ba Chồng, Đá Dĩa được giải thích bởi nguyên lý cân bằng đá. Vận động nâng tân kiến tạo và phong hóa, bóc mòn các vận liệu rời rạc, mềm bở xung quanh đã tạo nên các cột đá như hiện nay.

II. 3 Cảnh quan thung lũng sông

Hoạt động núi lửa, xâm thực và hoạt động nhân sinh đã hình thành nên sự đa dạng địa hình thung lũng sông khu vực Định Quán như: thác nước, ghềnh, thềm sông, thung lũng cắt qua…Điểm du lịch Thác Mai do sông La Ngà xâm thực trên nền đá xâm nhập; trong khi đoạn sông khu vực cầu La Ngà, nơi có làng cá bè được hình thành sau khi có công trình thủy điện Trị An.

III. Khảo sát sơ bộ các geosite

Kết quả khảo sát sơ bộ các geosite lý thú về mặt địa mạo (có giá trị về khoa học, thẩm mỹ) được trình bày trong Hình 1 và Bảng 1.

Hình 1: Các geosite khu vực Định Quán
Hình 1: Các geosite khu vực Định Quán

Anh_Bang_1

IV. Các geosite đại diện

IV.1 Geosite núi lửa

1) Núi lửa Đông Bắc (G_6)

Địa danh: ấp 5, xã Gia Canh, huyện Định Quán; Tọa độ: 1109’38’’B_107025’48’’Đ

Núi Đông Bắc cao 233 m, nhô trên bề mặt đồng bằng cao 120 m. Phần đỉnh có miệng trũng dạng chữ C hướng hướng về phía nam, nơi có lưỡi dung nham tiếp giáp với núi Hang Dơi (Hình 2). Đá bazan cấu tạo núi Đông Bắc thuộc hệ tầng Xuân Lộc. Địa hình miệng trũng phong hóa đất đỏ được trồng cây ngắn ngày (bắp, đậu, mè); phần sườn dốc lộ đá được trồng cây công nghiệp như điều, tràm. Đỉnh Núi lửa Đông Bắc cao nhất khu vực đông nam Định Quán nên có thể là điểm nhìn (viewpoint) tốt, quan sát vùng đồng bằng Gia Canh.

Hình 2: Núi lửa Đông Bắc nhô cao trên đồng bằng Gia Canh
Hình 2: Núi lửa Đông Bắc nhô cao trên đồng bằng Gia Canh

2) Bàu Nước Sôi (G_9)

Địa danh: ấp 9, xã Gia Canh, huyện Định Quán. Tọa độ: 1106’13’’B_107024’28’’Đ.

Bàu có dạng trũng kéo dài bắc nam, là miệng núi lửa âm, diện tích khoảng 2 ha; nằm trong vùng phân bố lớp phủ bazan dòng chảy tuổi Pleistocen muộn. Lớp phủ bazan rộng, bằng phẳng thuộc khu rừng phòng hộ của Lâm trường Tân Phú.

Gọi là bàu nước sôi, nhưng nhiệt độ nước khoảng 30-40oC. Điểm nước nóng này đã được khai thác du lịch (Hình 3) gồm hệ thống kênh ngâm chân, bể tắm, vịt đạp, nhà nghỉ dưỡng, nhà hàng, bãi giữ xe. Tuy vậy hoạt động du lịch vắng vẻ, các công trình đang dần xuống cấp.

Hình 3: Một phần diện tích Bàu Nước Sôi (miệng núi lửa âm)
Hình 3: Một phần diện tích Bàu Nước Sôi (miệng núi lửa âm)

IV.2 Geosite đá xâm nhập bóc mòn

1) Công viên đá Ba Chồng (G_3)

Khu vực này là một quần thể đá rộng tới 2,5 ha. Các khối đá, cột đá, tường đá tập trung ở thị trấn Định Quán. Cột đá ba chồng nằm rìa trái quốc lộ 20 (từ Dầu Giây đi Đà Lạt) được dùng đặt tên cho Công viên Đá Ba Chồng – một danh thắng cấp quốc gia.

Ngoài cột đá ba chồng cao 22 m (Hình 4), các khối đá ấn tượng trong khu công viên này còn có Đá Voi (Bạch Tượng) gồm Voi đực cao 22 m, Voi cái cao 20m (Hình 5); Đá Dĩa cao khoảng 23 m.

Trên lưng Voi đực có tượng phật Thích Ca. Đây cũng là vị trí thích hợp để quan sát một diện tích rộng lớn Công viên Đá Ba Chồng, các núi lửa ở khu vực Phú Lợi, núi lửa Đông Bắc (G_6), Núi Hang Dơi (G_7) trên đồng bằng Gia Canh và núi lửa Đồi Mười Hai (G_4).

Cách Đá Voi khoảng 60 m về phía đông nam là chùa Thiên Chơn. Chùa được xây dựng năm 1957 trên diện tích khoảng 4000 m2. Năm 2000 chùa được đại trùng tu nhưng vẫn bảo lưu những đường nét kiến trúc cổ và hệ thống thờ tự truyền thống. Chùa Thiên Chơn thường xuyên đón tiếp du khách, Phật tử đến thăm, lễ bái nhất là vào ngày lễ Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Sự hiện diện chùa Thiên Chơn đã bổ sung thêm giá trị tâm linh cho geosite Đá Ba Chồng.

Hình 4: Tường đá và cột Đá Ba Chồng
Hình 4: Tường đá và cột Đá Ba Chồng
Hình 5: Đá Voi (Bạch Tượng)
Hình 5: Đá Voi (Bạch Tượng)

2) Đá Xuân Sơn (G_2)

Địa danh: ấp 114, thị trấn Định Quán, huyện Định Quán. Tọa độ: 11011’23’’B_107020’50’’Đ.

Đá Xuân Sơn là hai cột đá hình trụ đứng sát nhau, có cùng độ cao, khoảng 25 m. Đường kính mỗi cột trung bình là 30 m. Mỗi cột đá gồm hai khối: khối dưới cao khoảng 20 m, khối trên nhỏ hơn cao khoảng 5 m (cột đá hai chồng) (Hình 6). Cột đá Xuân Sơn nằm bên rìa phải quốc lộ 20, cách cột Đá Ba Chồng khoảng 800 m. Đá Xuân Sơn cũng có thành phần, nguồn gốc thành tạo như các khối đá, cột đá trong công viên Đá Ba Chồng.

Tại chân cột đá Xuân Sơn có lớp phủ đá bazan tuổi Pleistocen muộn (Hình 7). Đá có màu đen, nhiều lỗ rỗng, phong hóa vỡ khối giống với đá bazan khu vực Bàu Nước Sôi, Tân Phú và Cát Tiên. Điều thú vị được ghe bác chủ nhà giải thích: “đá bazan này được thổi ra từ núi lửa Đồi 118 ở phía bắc”.

Đá Xuân Sơn cùng với lớp phủ bazan (dòng chảy) là một điểm lộ đẹp, một geosite có giá trị về khoa học địa mạo, địa tầng. Tiếc thay, việc xây dựng nhà cửa đã che lấp gần như toàn bộ hình dáng của geosite này.

Hình 6: Cột đá Xuân Sơn
Hình 6: Cột đá Xuân Sơn

Hinh_7_DaXuanSon_b

Hình 7: Lớp phủ bazan tuổi Pleistocen muộn ở chân cột đá Xuân Sơn

IV.3 Cảnh quan thung lũng sông

1) Điểm nhìn cầu La Ngà (G_5)

Lòng sông tại cầu La Ngà nay là một phần diện tích hồ Trị An. Từ năm 1993, những người dân chài đến đây lập nghiệp dần tạo nên một làng nổi xếp thành dải uốn lượn theo dòng chảy dài tới 3 km, tạo nên cảnh sông nước thơ mộng hấp dẫn du khách mỗi lần đi qua. Làng cá bè này thường xắp xếp theo lòng cũ của sông La Ngà và luôn thay đổi hình dạng (xắp xếp lại) phụ thuộc vào mực nước hồ theo mùa trong năm.

Phía đông cầu La Ngà có một đồi cao 25 m. Đây là đồi thềm xâm thực trên đá phiến sét thuộc hệ tầng La Ngà – một vị trí thích hợp để quan sát, lập mặt cắt cảnh quan qua thung lũng sông La Ngà. Từ nhiều năm nay, đồi thềm xâm thực này là điểm dừng học tập đầu tiên trong tuyến lộ trình Thực tập môi trường Đại cương hàng năm của Khoa Môi trường.

Trên đỉnh đồi thềm có tượng đài Chiến Thắng La Ngà nơi diễn ra trận thắng vang dội của quân và dân Đông Nam Bộ vào ngày 1 tháng 3 năm 1948. Tượng đài là một trong những công trình của Cụm di tích Chiến thắng La Ngà đã được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng di tích, lịch sử cấp quốc gia vào 1986.

Điểm nhìn Cầu La Ngà cùng với Cụm di tích Chiến thắng La Ngà là nơi thích hợp cho việc thăm quan, nghiên cứu, học tập về địa chất, địa mạo núi lửa, thung lũng sông cũng như tìm hiểu về lịch sử của địa danh này.

Hình 8: Sáng sớm trên làng cá bè La Ngà
Hình 8: Sáng sớm trên làng cá bè La Ngà
Hình 9: Hoàng hôn trên làng chài cá bè La Ngà
Hình 9: Hoàng hôn trên làng cá bè La Ngà
Hình 10: Làng cá bè La Ngà (Nguồn: Dungsulk)
Hình 10: Làng cá bè La Ngà (Nguồn: Dungsilk)
Hình 11: Quăng lưới (Nguồn: DungSilk)
Hình 11: Quăng lưới (Nguồn: DungSilk)

2) Thác Mai (G_8)

Địa danh: ấp 9, xã Gia Canh, huyện Định Quán. Tọa độ: 1106’37’’B_107027’9’’Đ.

Thác Mai được hình thành bởi dải đá granodiorit chắn ngang lòng sông La Ngà. Dải đá này dài khoảng 130 m, kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam (Hình 12). Bờ tây bắc là thềm cao 5 m gồm cát, sạn (aluvi) phủ trên đá granodiorit. Bờ đông nam là vách thềm cao khoảng 7 m lộ đất đỏ bazan. Độ chênh cao Thác Mai không lớn như các thác ở vùng Tây Nguyên do thác được hình thành nơi sông chảy qua nền đá xâm nhập có độ cứng lớn các nền đá khác.

Tại khu vực Thác Mai còn quan sát được hiện tượng đá chồng (Hình 13) làm cơ sở giải thích cho sự hình thành các khối đá chồng ở khu vực thị trấn Định Quán. Tại đây khá phổ biến hiện tượng phá hủy đá do thực vật. Các rễ cây phát triển theo các hệ khe nứt dần tách các khối đá xâm nhập rắn chắc thành các mảng nhỏ hơn (Hình 14), rồi bị dòng chảy mang đi.

Thác Mai đã được khai thác phục vụ du lịch. Ngoài việc ngắm nhìn cảnh quan thác, một số dạng địa hình khác cũng được sử dụng như đảo giữa dòng (Nhất Đảo Mai), nền đá xâm thực, bãi tắm phía trên thác. Tuy vậy, điểm du lịch này đang dần xuống cấp, một vài công trình không còn được sử dụng hoặc không đảm bảo an toàn cho du khách.

Hình 12: Dải đá granodiorit chắn ngang sông La Ngà tạo nên Thác Mai
Hình 12: Dải đá granodiorit chắn ngang sông La Ngà tạo nên Thác Mai
Hình 13: Đá chồng ở Thác Mai
Hình 13: Đá chồng ở Thác Mai
Hình 14: Hệ thống rễ cây đang tách khối đá xâm nhập
Hình 14: Hệ thống rễ cây đang tách khối đá xâm nhập

V. Kết luận

Có vị trí địa lý thuận lợi (gần các thành phố, các khu đô thị lớn), các geosite địa chất, địa mạo – nguồn tài nguyên địa du lịch đầy tiềm năng khu vực Định Quán nếu được nghiên cứu chi tiết, được khai thác hiệu quả sẽ góp phần phát triển kinh tế địa phương cũng như nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc tìm hiểu khoa học Trái đất, từ đó sẽ có trách nhiệm trong việc việc bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên quí giá này.

TỔNG QUAN VỀ ĐỊA DU LỊCH – Bài 1: Một số định nghĩa về địa du lịch

Phương Chi

Địa chất (Geology) và Địa lý (Geography) cùng có tiếp đầu ngữ ‘geo‘ – ‘địa’, hai lĩnh vực này có những phần tương tác với nhau nên thường có sự nhầm lẫn cũng như phân vân khi đưa tiếp đầu ngữ (geo) vào các khái niệm mới. Bài viết này trình bày một số định nghĩa của các tác giả và tổ chức về Địa du lịch – Geotourism thay vì dùng Du lịch Địa chất – Geological Tourism và Du lịch Địa lý – Geographical Tourism.

1) Thomas Hose (1995): nhà địa chất đầu tiên định nghĩa về địa du lịch.

Địa du lịch là hình thức du lịch quan tâm vào các đặc điểm địa chất [2]. Định nghĩa này phát triển dựa trên quan điểm Du lịch Cảnh quan (Landscape Tourism) – du lịch dựa vào địa chất và môi trường vô sinh.

Hose Đọc tiếp “TỔNG QUAN VỀ ĐỊA DU LỊCH – Bài 1: Một số định nghĩa về địa du lịch”

KHẢO SÁT SƠ BỘ ĐỊA CHẤT, ĐỊA MẠO TẠI XÃ ĐẢO TAM HẢI, HUYỆN NÚI THÀNH, QUẢNG NAM

Ngày 18.05.2016

Chiều 17. 05, đang thưởng thức món Ram ở Quảng Ngãi,  sau 1 cú điện thoại bác Thu cho biết sáng mai chúng ta sẽ khảo sát mấy đảo nhỏ ở Quảng Nam, cụ thể đảo nào thì chưa biết, Mr. Sung và Mr. Trinh (khu Bảo tồn biển Cù lao Chàm) hẹn gặp tại cảng Kỳ Hà.

7: 00 đón Diễm Kiều (phụ trách du lịch của công ty Đoàn Ánh Dương), như vậy nhóm có 5 người (bác Thu – nhóm trưởng kiêm lái xe, bác Túy, Hải và Vũ).

Qua phà Kỳ Hà để sang xã đảo Tam Hải. Xe chạy trên con đường bê tông dọc theo bãi nồm về phía bắc khoảng 4 km rồi dừng lại tại nhà anh Khoa, chị Thu (cơ sở của  Mr. Trinh) ở gần chân núi Bàn Than. Mọi người lên thuyền thúng chèo tay của anh Khoa ra thuyền thúng chạy máy để khảo sát khu vực.

Qua phà Kỳ Hà
Qua phà Kỳ Hà

Anh khoa cho thuyền chạy vòng về phía bắc mũi Bàn Than, rồi ngược lại về phía Hòn Khô, Hòn Mang. Thuyền cập bãi Hòn Mang để mọi người khảo sát. Hòn mang lộ chủ yếu là đá biến chất hệ tầng Núi Vú (đá phiến thạch anh – biotit, đá phiến si lic, đá phiến plagiocla) có phương vị hướng dốc 250o với hệ thống khe nứt phương 190o và 150o.

Từ trái qua: Đoàn Sung, Hải, Diễm Kiều, Mạnh Trinh, Ngọc Thu
Từ trái qua: Đoàn Sung, Hải, Diễm Kiều, Mạnh Trinh, Ngọc Thu

Đọc tiếp “KHẢO SÁT SƠ BỘ ĐỊA CHẤT, ĐỊA MẠO TẠI XÃ ĐẢO TAM HẢI, HUYỆN NÚI THÀNH, QUẢNG NAM”

HƯỚNG TỚI CÔNG VIÊN ĐỊA CHẤT BÌNH CHÂU – LÝ SƠN

Ngày 17.05.2016

Khảo sát thực địa tại núi Thiên Ấn và thành cổ Châu Sa.

1) Núi Thiên Ấn

Núi Thiên Ấn cao 108 m, cách thành phố Quảng Ngãi khoảng 2 km về phía đông bắc. Kết quả khảo sát hôm nay như sau:

– Ranh giới giữa đá granodiorit (phức hê Bến Giằng, Paleozoi thượng) nằm ở độ cao khoảng 60 m. Ranh giới này không rõ ràng, phía dưới là lộ rải rác các khối granodiorit, đất có màu xám vàng. Phía trên là laterit kết tảng rắn chắc lộ thành các mảng lớn, lên cao hơn đất co màu nâu đỏ.

Vị trí có ranh giới khộng rõ ràng giữa granodiorit và bazan
Vị trí có ranh giới khộng rõ ràng giữa granodiorit và bazan

– Vách đường cao 5 – 6 m, dài khoảng 200 – 300 lộ đất đỏ bazan (chủ yếu thuộc đới sét hóa cấu trúc).

Mặt cắt lộ đất đỏ bazan
Mặt cắt lộ đất đỏ bazan

– Bề mặt đỉnh cao 100-108 m khá bằng phẳng. Địa tầng tại giếng đào (giếng cổ) sâu khoảng 25 m lộ 2 tầng: trên là laterit kết tảng (phong hóa từ bazan plio-pleistocen) dày khoảng 3,0 m, dưới là sét hóa cấu trúc thấy được khoảng 10 m.

– Điểm nhìn thành phố Quảng Ngãi và khu công nghiệp VSIP nằm trong khoảng lộ mặt cắt đất đỏ bazan dọc theo vách đường.

– Điểm nhìn cửa sông Trà Khúc (có thể nhìn được doi cát cửa sông) là phần đất trống phía đông (gần nghĩa trang). Chưa chọn được điểm nhìn về thành cổ Châu Sa do bị cây che khuất.

2) Thành cổ Châu Sa

– Thành cổ Châu Sa phân bố trên thềm sông, cao khoảng 10 m. Vật liệu đắp thành chính là các trầm tích cấu tạo thềm gồm chủ yếu là bột, cát mịn, ít sạn sỏi thạch anh, sỏi laterit và các mảnh gạch, ngói.

– Các hào đào phân bổ vành ngoài thành là nơi lấy đất đắp thành. Hiện các hào này là các dải trũng, được người dân trồng lúa và rau màu.

Trũng phía đông - vết tích hào đào lấy đất đắp thành
Trũng phía đông – vết tích hào đào lấy đất đắp thành

Đọc tiếp “HƯỚNG TỚI CÔNG VIÊN ĐỊA CHẤT BÌNH CHÂU – LÝ SƠN”